Bản án 30/2017/HNGĐ-ST ngày 22/06/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 30/2017/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 6 năm 2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2015/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2015 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2017/QĐXX-ST ngày 06 tháng 5 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Giáp Văn P, sinh năm 1967 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1978 ( Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Cư trú tại: Viện dưỡng lão ĐK, Cao Hùng, Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn anh Giáp Văn P trong các lời khai và tại phiên toà hôm nay thì thấy:

Anh P kết hôn với chị Nguyễn Thị D ngày 31/12/2013 và có đăng ký tại UBND xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Trước khi kết hôn chúng tôi được tự do tìm hiểu và không bị ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 2 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị D thường xuyên đi đánh bạc ở Bắc Ninh, chị D đi khoảng 3 đến 4 ngày mới về. Anh P đã khuyên bảo chị D nhiều lần nhưng chị D không nghe nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Khoảng tháng 5/2014 chị D bỏ đi và ở đâu anh không biết và tháng 11/2014 anh P được chị D điện thông báo cho biết là chị đang đi lao động tại Đài Loan. Từ khi chị D đi vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau qua bất kỳ hình thức nào. Vợ chồng ly thân từ tháng 5/2014 đến nay. Nay anh P thấy vợ chồng tình cảm không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chị D.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung.

Về tài sản chung, công nợ: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có quyết định số 609/QĐ-TA ngày 08/4/2015 và Quyết định số 01/QĐ-UTTA ngày 01/12/2016 về việc ủy thác cho Văn phòng kinh tế - văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc xác minh lấy lời khai của chị Nguyễn Thị D đã quá thời hạn nhưng không có kết quả trả lời của cơ quan có thẩm quyền.

Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã nhiều lần tiến hành làm việc với ông Nguyễn Văn H là bố đẻ chị D để xác minh địa chỉ của chị D nhưng ông H xác định chị D thường xuyên liên lạc về gia đình và gia đình đã thông báo cho chị D biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đang thụ lý vụ án và yêu cầu chị D gửi địa chỉ và ý kiến của mình về việc anh P xin ly hôn chị D. Ông H cho biết chị D đã chuyển địa chỉ làm việc và ông đã thông báo cho chị D biết việc anh P xin ly hôn chị. Chị D đồng ý ly hôn với anh P và chị xin vắng mặt nhưng chị không thông báo địa chỉ và ý kiến về cho Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay anh Giáp Văn P vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị D.

Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của ông Nguyễn Văn H là bố đẻ chị D về việc chị D đồng ý xin ly hôn và xin vắng mặt tại phiên tòa; việc chị D không cung cấp địa chỉ và lời khai của chị về cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của pháp luật. Xét thấy mâu thuẫn giữa anh P và chị D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho anh P được ly hôn với chị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các bên trình bày ý kiến, tranh luận. Sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã nhiều lần làm việc với ông Nguyễn Văn H nhưng tại các buổi làm việc ông H đều khẳng định đã thông báo cho chị D biết việc Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đang thụ lý giải quyết việc anh P xin ly hôn với chị nhưng chị D không cung cấp địa chỉ ở Đài Loan cho gia đình; Ông H cho biết hiện tại chị D đã thay đổi địa điểm làm việc nên không biết địa chỉ làm việc hiện tại của chị D ở Đài Loan mà mọi công việc ông H chỉ liên lạc với chị D qua điện thoại. Do vậy căn cứ điểm b, tiểu mục 2.1 phần II Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Toà án nhân dân tối cao về một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình; Căn cứ Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị D.

Về quan hệ vợ chồng: Anh Giáp Văn P kết hôn với chị Nguyễn Thị D ngày 31/12/2013 và có đăng ký tại UBND xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp cần chấp nhận. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị D thường xuyên đi đánh bạc khoảng 3 đến 4 ngày mới về nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Khoảng tháng 5/2014 chị D bỏ đi và ở đâu anh P không biết và tháng 11/2014 anh P được chị D điện thông báo cho biết là chị đang đi lao động tại Đài Loan. Từ khi chị D đi vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau qua bất kỳ hình thức nào. Vợ chồng ly thân từ tháng 5/2014 đến nay. Chị D đã được Tòa án thông báo việc Tòa án đang giải quyết việc anh P xin ly hôn chị nhưng thông qua thân nhân của chị D cho biết chị đồng ý ly hôn nhưng không gửi ý kiến của mình và địa chỉ làm việc về cho Tòa án. Xét thấy vợ chồng anh P, chị D xa nhau đã lâu và không còn quan tâm đến nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần thiết chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh P, giải quyết cho hai người được ly hôn để đảm bảo cuộc sống riêng của mỗi người là phù hợp với pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về công nợ: Không có.

Về án phí, lệ phí: Các đương sự chịu theo quy định của pháp luật.

Vi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 19, 56 và Điều 123 Luật hôn nhân và gia đình; Điều Đ28, 147, 153, 220, 235 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự Căn cứ pháp lệnh10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009 về án phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phía tòa án, xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho anh Giáp Văn P được ly hôn với chị Nguyễn Thị D

3. Về án phí, lệ phí: Anh Giáp Văn P phải chịu 200.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 200.000đ theo biên lai thu số 004742 ngày 27/3/2015 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh. Anh P phải chịu 150.000đ tiền lệ phí ủy thác tư pháp nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng lệ phí ủy thác tư pháp đã nộp 150.000đ theo biên lai thu số 004745 ngày 06/4/2015 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh. Anh P đã nộp đủ án phí, lệ phí sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án vắng mặt./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2017/HNGĐ-ST ngày 22/06/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:30/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về