Bản án 301/2018/DS-PT ngày 31/10/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 301/2018/DS-PT NGÀY 31/10/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 186/2018/TLPT-DS ngày 28 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2015/DS-ST ngày 05/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 211/2018/QĐPT-DS ngày 12 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- nguyên đơn:

1. Ông Võ Văn B, sinh năm 1967;

2. Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1966;

Cùng cư trú tại: Ấp AT, xã AT, huyện BT, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn:

1. Ông Võ Văn L, sinh năm 1956;

2. Bà Trần Thị Ch, sinh năm 1957;

Cùng cư trú tại: Ấp AT, xã AT, huyện BT, tỉnh Bến Tre.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Võ Văn Ph, sinh năm 1982;

2. Chị Võ Thị Kim S, sinh năm 1984;

3. Anh Võ Văn S1, sinh năm 1988;

4. Chị Võ Thị Kim Gi, sinh năm 1997;

Cùng cư trú tại: Ấp AT, xã AT, huyện BT, tỉnh Bến Tre.

5. Ủy ban nhân dân huyện BT, tỉnh Bến Tre;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Minh T, chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện BT, tỉnh Bến Tre.

- Người kháng cáo: Ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng trình bày:

Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông Võ Văn B mua của ông Nguyễn Văn Phá năm 1984, đất có diện tích qua đo đạc thực tế là 419,6 m2, thuộc một phần thửa số 36, tờ bản đồ số 16. Khi ông B mua đất không có làm giấy tờ nhưng sau này ông Phá có xác nhận lại vào năm 2011. Tuy giấy khai sinh của ông B thể hiện sinh năm 1967 nhưng thực tế ông B sinh năm 1963 nên việc ông B mua đất của ông Phá năm 1984 là đúng sự thật. Sau khi mua đất thì ông B cất nhà ở rồi quản lý, sử dụng và đăng ký, kê khai được Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ Võ Văn B vào ngày 29/9/1995.

Năm 1996, ông B có cho ông Võ Văn L cất chuồng bò tạm, khi nào cần thiết sẽ lấy lại và đến năm 2010, các con ông B lớn nên ông B có yêu cầu lấy lại đất thì phát sinh tranh chấp đến nay. Việc cho ông L, bà Ch cất chuồng bò thì chỉ nói miệng chứ không có giấy từ gì vì là chỗ anh em ruột và ông L, bà Ch cũng đã có cất nhà ở ổn định nơi khác. Hiện nay trên phần đất tranh chấp có 01 căn nhà, 01 chuồng bò và 03 chuồng heo của ông L, khi ông B yêu cầu lấy lại thì ông L lại tiếp tục xây dựng hàng rào nên cũng được địa phương lập biên bản. Do đó, nay ông bà yêu cầu ông Võ Văn L và bà Trần Thị Ch phải trả lại cho ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2, thuộc một phần thửa số 36, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại: Ấp AT, xã AT, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre và ông B, bà Ng sẽ trả lại cho ông L, bà Ch giá trị bằng tiền đối với căn nhà, hàng rào, chuồng heo và chuồng bò. Ông B không yêu cầu tính giá trị công bồi đấp trên đất tranh chấp.

Bị đơn ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch trình bày:

Phần đất hiện đang tranh chấp có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn Phá bán cho ông Võ Văn Long và bà Nguyễn Thị Phẩm vào năm 1975. Năm 1984, ông Long, bà Phẩm có cho vợ chồng ông phần đất này nên năm 1985 vợ chồng ông đã về cất chuồng heo, chuồng bò để chăn nuôi đến nay. Từ khi được cha mẹ cho đất về đây ở không có ai tranh chấp hay ngăn cản gì. Ông B cho rằng mua đất của ông Nguyễn Văn Phá vào năm 1984 là không có vì lúc đó ông B chỉ có 15 tuổi. Hiện tại, trên phần đất này chỉ có chuồng bò, chuồng heo, nhà của vợ chồng ông, còn các con ông hiện nay đang ở trên phần đất khác. Việc ông Vô Văn B tự đăng ký, kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 29/9/1995 đối với phần đất tranh chấp thì ông không biết. Do đó, nay ông B, bà Ng yêu cầu ông trả lại diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2 thuc một phần thửa số 36 tờ bản đồ số 16 là ông không đồng ý. Ông yêu cầu Tòa án hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất tranh chấp mà Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri đã cấp cho hộ ông Võ Văn B. Ông không yêu cầu tính giá trị công bồi đấp đất.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Võ Văn Ph, chị Trần Thị Kim S, anh Võ Văn S1, chị Võ Thị Kim Gi trình bày:

Các anh chị thống nhất lời trình bày của nguyên đơn và không có ý kiến gì khác.

y ban nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre trình bày:

Qua kiểm tra hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Võ Văn B tại thửa số 36, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại: Xã AT được thực hiện đúng theo trình tự thủ tục và vụ việc tranh chấp giữa ông Võ Văn B với ông Võ Văn L được Ủy ban nhân dân xã AT thụ lý, sau đó chuyển về Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri không thụ lý hồ sơ, không nắm rõ vụ việc tranh chấp nên Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri không có căn cứ để nêu ý kiến hủy hay không hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Võ Văn B được. Do bận công tác chuyên môn nên Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đại diện Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2015/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri đã quyết định như sau:

Bác yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng về việc yêu cầu ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch phải trả lại diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2, thuộc một phần thửa số 36, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại: Ấp AT, xã AT, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre (có trích lục họa đồ kèm theo).

Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2, thuộc một phần thửa số 36, tờ bản đồ số 16 mà Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri đã cấp cho hộ ông Võ Văn B vào ngày 29/9/1995.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/11/2015 ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số: 20/2016/DS-PT ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã quyết định như sau:

Chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng.

Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 86/2015/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2015 của Tòa án nhân huyện Ba Tri. Cụ thể tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng.

Buộc ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch phải trả lại diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2 thuc một phần thửa số 36 tờ bản đồ số 16 tọa lạc tại ấp AT, xã AT, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre (có trích lục họa đồ kèm theo) cho ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng.

Ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng có nghĩa vụ liên đới bồi hoàn cho ông Võ Văn L và bà Trần Thị Ch số tiền 17.934.000 đồng (Mười bảy triệu chín trăm ba mươi bốn ngàn đồng).

Ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng được quyền sở hữu các tài sản, vật kiến trúc và các cây trồng trên phần đất được ông L, bà Ch giao trả (như nhà, chuồng bò, chuồng heo, hàng rào và các cây trồng theo biên bản định giá ngày 28/3/2014).

Bác yêu cầu phản tố của ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2 thuc một phần thửa số 36 tờ bản đồ số 16 mà Ủy ban nhân dân huyện Ba Tri đã cấp cho hộ ông Võ Văn B vào ngày 29/9/1995 (có trích lục họa đồ kèm theo).

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Ngày 15/12/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số: 20/2016/DS-PT ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre với nội dung: Đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm số: 20/2016/DS-PT ngày 25 tháng 01 năm 2016 giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số: 168/2018/DS-GĐT ngày 05/3/2018 của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:

Chấp nhận kháng nghị số: 11/2017/KNGĐT-VKD-DS ngày 15/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Hy Bản án dân sự phúc thẩm số: 20/2016/DS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử vụ án dân sự về “Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng; bị đơn là ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về tố tụng: Người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; về nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; xét kháng cáo của ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Phần đất tranh chấp có diện tích 419,6m2, thuộc một phần thửa 36, tờ bản đồ 16, tọa lạc tại: Ấp AT, xã AT, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Nguồn gốc đất được nguyên đơn trình bày là nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Phá vào năm 1984 đến năm 1996 thì cho gia đình ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch mượn đất để cất chuồng bò khi nào cần sử dụng đất thì nguyên đơn sẽ lấy lại. Phía bị đơn thì cho rằng phần đất này được cụ Võ Văn Long, cụ Nguyễn Thị Phẩm nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Phá năm 1984 đến năm 1985 thì cho vợ chồng bị đơn quản lý, sử dụng đến nay.

[2] Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để chứng minh nguồn gốc đất tranh chấp là Đơn xin xác nhận ngày 11/10/2011 của ông Nguyễn Văn Phá có nội dung ông Phá có bán cho vợ chồng ông B phần đất ruộng khoảng 1.300m2 nhưng văn bản này không được công chứng, chứng thực, cũng không có người làm chứng. Đồng thời, tại Biên bản làm việc ngày 02/7/2014 với ông Nguyễn Văn Phá thì ông Phá xác định rằng phần đất tranh chấp giữa ông B với ông L có nguồn gốc đất của ông bán cho bà Ba Nữa năm 1980… sau đó bà Ba Nữa bán lại cho vợ chồng bà Bảy Long (mẹ ruột ông B, ông L), đồng thời ông Phá cũng xác định không bán đất cho ông B cũng như không ký tên vào Đơn xin xác nhận ngày 11/10/2011. Ngoài ra, tại Biên bản xác minh ngày 09/5/2011 cụ Phẩm có trình bày phần đất tranh chấp do vợ chồng bà mua của ông Bảy Phá sau năm 1975, phần đất này bà đã cho ông L từ bờ ngang ra đến sẻo (hai bên sử dụng đã có hàng rào ổn định).

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 11/10/2018 nguyên đơn yêu cầu tạm ngừng phiên tòa để giám định chữ ký. Tại Kết luận giám định số: 26/2019/QĐTL ngày 17/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận không đủ cơ sở kết luận chữ ký ghi “phá” phía dưới dòng chữ Nguyễn Văn Phá trên “Đơn xin xác nhận” ngày 11/10/2011 so với chữ ký Nguyễn Văn Phá trên tài liệu mẫu có phải do cùng một người ký ra hay không. Sau đó, nguyên đơn yêu cầu giám định lại. Tại Kết luận giám định lại số: 3276/C09B, ngày 26/8/2019 của Phân Viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận không đủ cơ sở kết luận chữ ký dạng chữ viết “phá” dưới nội dung Nguyễn Văn Phá trên “Đơn xin xác nhận” ngày 11/10/2011 so với chữ ký dùng làm mẫu so sánh đứng tên Nguyễn Văn Phá trên tài liệu mẫu có phải do cùng một người ký ra hay không. Như vậy, ông Nguyễn văn phá đã xác nhận hai nội dung khác nhau nên không có cơ sở để xác nhận chũ ký của ông Phá tronguyên đơn xin xác nhận ngày 11/10/2011. Tuy nhiên, văn bản ghi nhận ý kiến của ông Phá tại biên bản làm việc ngày 02/7/2019 là thời gian sau nên có giá trị pháp lý trong việc đánh giá chứng cứ. Từ đó, có căn cứ để xác định phần đất tranh chấp được cụ Long, cụ Phẩm mua của ông Nguyễn Văn Phá, đã cho vợ chồng ông L quản lý, sử dụng ổn định từ năm 1985 và điều này được các anh em của ông B, ông L là bà Võ Thị Phụng, ông Võ Văn Trước cùng xác nhận.

[4] Xét thấy, năm 1995 ông Võ Văn B đăng ký, kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp nhưng không chứng minh được nguồn gốc đất và khi đó trên đất có nhà và công trình chuồng chăn nuôi của gia đình ông L nhưng không có ý kiến của ông L về việc đồng ý để ông B kê khai, đăng ký đất tranh chấp là không phù hợp theo quy định pháp luật. Ông B cho rằng ông cho ông L mượn đất để ở nhưng ông B không có chứng cứ gì chứng minh, phía ông L cũng không thừa nhận. Phía ông B cũng không có thời gian nào sử dụng đất. Việc ông B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng đối tượng. Tuy nhiên, bị đơn yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông B là không cần thiết, theo đó cần kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B đối với phần diện tích đất tranh chấp S1 cho ông Võ Văn L là phù hợp.

[5] Từ những nhận định trên, cấp phúc thẩm bác kháng cáo của ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng, Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2015/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phù hợp nên được chấp nhận.

[6] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc, định giá, thu thập quy trình là 2.113.995 đồng (hai triệu một trăm mười ba nghìn chín trăm chín mươi lăm đồng) ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng phải chịu và đã nộp xong.

[7] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng phải liên đới chịu án phí là 3.147.000đ (ba triệu một trăm bốn mươi bảy ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 375.000 đồng (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005392 ngày 29/8/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri. Ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng còn phải liên đới nộp số tiền là 2.772.000đ (hai triệu bảy trăm bảy mươi hai ngàn đồng).

- Ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Theo Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2016/DS-PT ngày 25/01/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre thì ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch phải liên đới chịu là 3.147.000 đồng. Theo nội dung Công văn số 881/CCTHADS ngày 18/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri thì ông L, bà Ch đã thi hành xong nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm là 3.147.000 đồng theo Quyết định thi hành án số 998, số 997/QĐ-CCTHADS cùng ngày 24/5/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri. Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri hoàn trả cho ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch số tiền 3.147.000 đồng (Ba triệu một trăm bốn mươi bảy ngàn đồng).

- Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0018144 ngày 16/11/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri. Hoàn trả lại cho ông B, bà Ng số tiền 100.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2015/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng về tranh chấp quyền sử dụng đất với bị đơn ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch. Ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch được tiếp tục quản lý, sử dụng và được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký, kê khai, yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2 thuộc một phần thửa số 36, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại: Ấp AT, xã AT, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Uỷ ban nhân dân huyện Ba Tri cấp cho hộ ông Võ Văn B S1 cho ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch diện tích đất qua đo đạc thực tế 419,6 m2 thuộc một phần thửa số 36, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại: Ấp AT, xã AT, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

(Có họa đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

[3] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc, định giá, thu thập quy trình là 2.113.995 đồng (hai triệu một trăm mười ba nghìn chín trăm chín mươi lăm đồng) ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị Ng phải chịu và đã nộp xong.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng phải liên đới chịu án phí là 3.147.000đ (ba triệu một trăm bốn mươi bảy ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 375.000 đồng (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005392 ngày 29/8/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri. Ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng còn phải liên đới nộp số tiền là 2.772.000đ (hai triệu bảy trăm bảy mươi hai ngàn đồng).

Ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Theo Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2016/DS-PT ngày 25/01/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre thì ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch phải liên đới chịu là 3.147.000 đồng. Theo nội dung Công văn số 881/CCTHADS ngày 18/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri thì ông L, bà Ch đã thi hành xong nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm là 3.147.000 đồng theo Quyết định thi hành án số 998, số 997/QĐ-CCTHADS cùng ngày 24/5/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri. Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri hoàn trả cho ông Võ Văn L, bà Trần Thị Ch số tiền 3.147.000 đồng (Ba triệu một trăm bốn mươi bảy ngàn đồng).

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Văn B, bà Nguyễn Thị Ng phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0018144 ngày 16/11/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri. Hoàn trả lại cho ông B, bà Ng số tiền 100.000đ (Một trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 301/2018/DS-PT ngày 31/10/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:301/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về