TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 300/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19/09/2017, tại Tòa án thị xã T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 327/2017/HSST ngày 31/08/2017 đối với bị cáo:
Đào V sinh năm 1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình; không nghề nghiệp; học phổ thông: 09/12; con ông Đ, sinh năm 1958 và bà L, sinh năm 1960; gia đình có 02 anh em, bị cáo thứ 1; vợ Nguyễn T, sinh năm 1982, có 02 con sinh năm 2004 và 2006; không tiền án, tiền sự; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/06/2017 đến nay, có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị B, sinh năm 1980; trú tại xóm C, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Viện kiểm sát thị xã T truy tố bị cáo về hành vi sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 07/06/2017, tại khu phố T, phường Đ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Đào V có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Hêrôin, trọng lượng 0,1975 gam, để sử dụng.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai: Vào ngày giờ nêu trên bị cáo đi xe máy biển số 20G1 - 232.38 đến khu phố T, phường Đ, gặp một người không quen biết mua 100.000đ được 01 gói ma túy, để sử dụng thì bị bắt.
Kết luận giám định số: 787/KLGĐ-PC 54 ngày 07/06/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy nhỏ có trọng lượng 0,1975gam; loại ma túy: Chất Hêrôin”.
Cáo trạng số: 230/CTr-VKS ngày 29/08/2017 của Viện kiểm sát thị xã T truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, buộc tội bị cáo về tội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 194 (khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự), Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76, 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017, của Quốc hội xử phạt bị cáo: 14 đến 17 tháng tù; tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại sau giám định.
Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với Viện kiểm sát mà xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp biên bản phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận giám định và vật chứng thu được có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 07/06/2017, tại khu phố T, phường Đ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Đào V có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Hêrôin, trọng lượng 0,1975 gam, để sử dụng.
Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây tác hại lớn cho xã hội; ma túy cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm hình sự khác; bị cáo sử dụng ma túy và nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã phạm tội. Tại bản án số 66 ngày 04/07/2003 của Tòa án thành phố T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo đã chấp hành xong ra trại ngày 10/12/2003, theo quy định của pháp luật bản án này đến nay đã đương nhiên được xóa án tích, không bị coi là tiền án. Nhưng qua đó thấy bị cáo đã một lần bị đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt từ 2 năm đến 07 năm tù và tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 quy định hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù, cùng đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy; theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo và căn cứ vào Nghị quyết số: 41 ngày 20/06/2017, của Quốc hội để xem xét, quyết định mức hình phạt cho phù hợp với hành vi của bị cáo.
Xét thấy bị cáo không có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt, được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phù hợp.
Tại phiên tòa Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.
Người bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này, khi nào điều tra làm rõ xử lý sau.
Số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo mượn chiếc xe máy biển số 20G1 - 232.38 và giấy đăng ký xe của chị B để đi mua ma túy; chị B cho bị cáo mượn, không biết bị cáo dùng để đi mua ma túy nên trả lại cho chị B là phù hợp.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đào V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng:
- Khoản 1 Điều 194 (Khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015), Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 41 Bộ luật hình sự;
- Điều 76, Điều 99, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Nghị quyết số: 41 ngày 20/06/2017 của Quốc hội, về thi hành Bộ luật hình sự năm 2015;
- Nghị quyết số 3262016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo: Đào V 14 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/06/2017.
Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.
Trả lại cho chị B chiếc xe máy biển số 20G1 - 232.38 và giấy đăng ký xe mang tên chị B.
Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 300/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 300/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về