Bản án 299/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 299/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 06 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 236/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lâm Thị X, sinh năm 1991 (Có đơn xin vắng mặt), Địa chỉ: thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1988 (Vắng mặt), Địa chỉ: 65/1 ấp T, xã P, huyện P, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và trong quá trình tố tụng nguyên đơn Lâm Thị X trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn P kết hôn tự nguyện vào năm 2017, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Phong, được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 26/9/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sinh sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, anh P không chăm lo làm ăn mà thường xuyên nhậu nhẹt. Chị và gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng anh Phong không thay đổi nên tháng 6/2019 chị đưa con về quê ở Quảng Ngãi sinh sống từ đó đến nay. Từ lúc chị về Quảng Ngãi anh P chỉ gửi tiền một lần nhưng số tiền không đáng kể, sau đó chị nói anh P gửi thêm tiền để lo cho con thì anh P không gửi, anh P cũng chưa một lần về quê thăm chị và con. Khi chị gửi đơn khởi kiện ly hôn anh P có biết nhưng không có ý kiến gì, tòa án mời hòa giải anh P cũng không đến tòa để hòa giải. Do hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không hàn gắn được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn P. Khi ly hôn chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng cho chị.

Về nuôi con chung: chị và anh P có con chung là Nguyễn Lâm Quỳnh A, sinh ngày 11/11/2017, cháu A hiện nay đang sống ở Quảng Ngãi cùng chị, chị buôn bán có thu nhập, có đủ điều kiện để nuôi con chung. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: chị và anh P không có tài sản chung, nợ chung nên chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn Nguyễn Văn P đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cùng các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp; các tài liệu, chứng cứ do tòa án thu thập nhưng không có văn bản ý kiến gửi Tòa án, anh P không có yêu cầu phản tố.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử: Trong thời gian chuẩn bị xét xử Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng với quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn Lâm Thị X thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Nguyễn Văn P chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Về hôn nhân: Chị X và anh P kết hôn tự nguyện, có đăng lý kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của chị X và anh P là hôn nhân hợp pháp. Chị X có yêu cầu ly hôn do anh P không lo làm ăn, không chăm lo cuộc sống gia đình và xác định hôn nhân không còn khả năng hàn gắn. Qua xác minh tình trạng hôn nhân của chị X và anh P thì hôn nhân của chị X và anh P có mâu thuẫn dù đã được gia đình hòa giải nhưng không hòa giải được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị X, cho chị X ly hôn với anh P. Do chị X không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, anh P không có ý kiến nên không xem xét.

Về nuôi con chung: chị X và anh P có con chung là Nguyễn Lâm Quỳnh A, sinh ngày 11/11/2017 đang sống chung với chị X được chị X chăm sóc tốt; chị X có đủ điều kiện nuôi con nên giao con chung cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Anh P không cấp dưỡng nuôi con chung do chị X không yêu cầu.

Về chia tài sản: Chị X trình bày không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu giải quyết, anh P không có ý kiến nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Lâm Thị X thì đây là tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn Nguyễn Văn P có nơi cư trú tại 65/1 ấp TB, xã P, huyện P, tỉnh Bến Tre theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.

[3] Về tố tụng: Nguyên đơn Lâm Thị X có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn Nguyễn Văn P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án quyết định xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Văn P theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: chị X và anh P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tân Phong cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 26/9/2017 nên hôn nhân của chị X và anh P là hôn nhân hợp pháp. Chị X có yêu cầu ly hôn do anh P không lo làm ăn, không chăm lo cuộc sống gia đình, vợ chồng đã có thời gian dài không sống chung, chị X xác định hôn nhân không hạnh phúc, không còn khả năng hàn gắn. Anh P biết rõ việc chị X có đơn xin ly hôn với anh và đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu của Tòa án nhiều lần đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tình trạng hôn nhân của chị X và anh P thì hôn nhân giữa chị X và anh P có mâu thuẫn dù đã được gia đình hòa giải nhưng không hòa giải được. Từ đó có căn cứ kết luận tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị X có yêu cầu ly hôn với anh P là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị X, cho chị X ly hôn với anh P. Do chị X không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn, anh P không có ý kiến nên không xem xét.

[4] Về nuôi con chung: chị X và anh P có con chung là Nguyễn Lâm Quỳnh A, sinh ngày 11/11/2017, cháu A hiện nay đang sống ở Quảng Ngãi cùng chị X được chị X chăm sóc tốt; chị X có đủ điều kiện nuôi con nên giao con chung cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Do chị X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở. Chị X, anh P có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về chia tài sản: chị X trình bày không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu giải quyết, anh P không có ý kiến nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị X phải chịu án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26, 27, Tiểu mục 1.1 Mục 1 phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lâm Thị X. Cho chị Lâm Thị X ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

Chị X không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn, anh P không có ý kiến nên không xem xét.

2. Về nuôi con chung: chị X được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Lâm Quỳnh Anh, sinh ngày 11/11/2017. Anh P không cấp dưỡng nuôi con chung do chị X không yêu cầu.

Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở. Chị X, anh P có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Chị X trình bày không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu giải quyết, anh P không có ý kiến nên không xem xét.

4. Về án phí: chị X phải chịu 300.000 đồng(ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị X đã nộp theo Biên lai số 0011595 ngày 11tháng 5 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú.

5. Các đương sự vắng mặt nên được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 299/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:299/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về