Bản án 298/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn giữa chị N và anh N

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 298/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ N VÀ ANH N

Ngày 29-5-2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 55/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn, giải quyết nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10-5-2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1989

Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số 8/48/75 đường T, phường L, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định

Địa chỉ cư trú: Số 2 đường L, phường T, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Hoàng Công N, sinh năm 1983

Địa chỉ cư trú: Số 8/48/75 đường Tg, phường L, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định

Tại phiên toà chị N có mặt, anh N vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án và tại phiên toà nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh N tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2008 tại Uỷ ban nhân dân phường L, thành phố Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh N không chăm lo cho cuộc sống gia đình, vợ con; không quan tâm gì đến nhau, không còn tình cảm nên chị xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Hoàng Thu T, sinh ngày 06-3- 2009. Nếu ly hôn chị xin nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Hoàng Công N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh N không đến Tòa án giải quyết không có lý do.

Cháu Hoàng Thu T có đơn trình bầy nguyện vọng xin được ở với mẹ;

Tổ trưởng tổ dân phố số 11, phường L, thành phố Nam Định xác nhận vợ chồng anh N chị N mâu thuẫn là do anh N làm việc tự do kinh tế không ổn định, mẹ con chị Nga bỏ đi ở chỗ khác, vợ chồng sống ly thân.

Quan điểm của Kiểm sát viên: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị xử ly hôn giữa chị N và anh N; về con chung giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung; chị N tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Hoàng Công N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do; vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Công N tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn năm 2008 tại Uỷ ban nhân dân phường L, thành phố Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh N không tu trí làm ăn, không chăm lo cho gia đình, nay không còn quan tâm gì đến nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11-2018 đến nay nên chị N xin ly hôn. Tổ dân phố cũng xác nhận vợ chồng chị N anh N có mâu thuẫn nên chị Nga đã đưa con đi ở nơi khác, vợ chồng không còn chung sống với nhau. Anh N đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh N vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa chị N vẫn giữ quan điểm xin ly hôn và xin trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không còn trên thực tế, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần xử ly hôn giữa chị N và anh N là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Công N có một con chung là Hoàng Thu T, sinh ngày 06-3-2009. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, anh N không đến Tòa án giải quyết nên không có quan điểm gì; cháu T có đơn trình bày nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn thì xin ở với mẹ. Vì vậy để bảo đảm sự ổn định việc học tập và phát triển tâm lý cho cháu T, nên cần giao con chung cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với các quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N tự nguyện không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con không vi phạm đạo đức xã hội, không trái với quy định của pháp luật nên được ghi nhận.

[4] Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chị N phải nộp phải nộp 300.000 đồng;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Công N;

2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị N trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Hoàng Thu T, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2009. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị N không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Anh Hoàng Công N có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000522 ngày 12-02-2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Nam Định.

Chị Nguyễn Thị N có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Hoàng Công N có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 298/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn giữa chị N và anh N

Số hiệu:298/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về