Bản án 298/2019/DS-PT ngày 11/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 298/2019/DS-PT NGÀY 11/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 11 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 228/2019/TLPT-DS ngày 17 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 14/2019/DSST ngày 14/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 286/2019/QĐ - PT ngày 16 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV (Lienvietpostbank);

Đa chỉ trụ sở: Số 109, Trần Hưng Đạo, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Công M - Chủ tịch HĐQT;

Người đại diện theo uỷ: Ông Nguyễn Việt Th - Chuyên viên Phòng Giám sát kinh doanh & xử lý nợ Khu vực phía Bắc, Ngân hàng TMCP Bưu Điện LV (Theo Giấy ủy quyền số 9931/2018/UQ- LienvietPostBank ngày 16/08/2018. Ông Thắng có mặt tai phiên tòa).

Bị đơn: Ông Trần Đăng K, sinh năm 1975 ( có mặt tại phên tòa).

Bà Đỗ Thị Thanh T, sinh năm 1978 (vắng mặt tại phiên tòa) Cùng trú tại: Khu TTXN 230, xã Tiên Dương, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông K: Ông Trần Văn Long - Luật sư của Công ty Luật TNHH Vietlink; trụ sở: P504, Toà nhà Giảng Võ Lake View, D10 Giảng Võ, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:

Ông Nguyễn Văn Kh - Sinh năm 1962; trú tại: Thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên tòa).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Kh: Ông Chu Bá Thực, bà Thân Thị Hương, đều là Luật sư Công ty Luật TNHH Thực Trí, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội;

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

4.1. Cụ Nguyễn Thị V - Sinh năm 1933 (vắng mặt tại phiên tòa);

4.2. Bà Nguyễn Thị H - Sinh năm 1969 (có mặt tại phiên tòa);

4.3. Anh Nguyễn Đình Q - Sinh năm 1991 (có mặt tại phiên tòa);

4.4. Anh Nguyễn Quốc K - Sinh ngày 28/04/2001 (vắng mặt tại phiên tòa);

4.5. Chị Nguyễn Thanh H - Sinh năm 1993 (vắng mặt tại phiên tòa);

Trú tại: Thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Cụ Nguyễn Thị V, anh Nguyễn Đình Q, anh Nguyễn Quốc K, chị Nguyễn Thanh H đều ủy quyền cho bà Nguyễn Thị H (theo Giấy uỷ quyền ngày 10/10/2019 được UBND xã Mai Lâm, huyện Đông Anh chứng thực).

4.6. Bà Nguyễn Thị G - Sinh năm 1971(vắng mặt tại phiên tòa);

HKTT: Số 9B3, tập thể Bộ Tư lệnh cảnh vệ, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Thành Phố Hà Nội; Hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Ngọc Lý, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hồng: Ông Nguyễn Văn Hà Luật sư Văn phòng Luật sư Hà Lan và Cộng Sự, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; trụ sở: Số 32B, phố Hoàng Như Tiếp, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội (ông Hà vắng mặt tại phiên tòa).

4.7. Văn phòng công chứng LB do ông Nguyễn Địch Minh - Trưởng Văn phòng là đại diện theo pháp luật; trụ sở: Số 120, phố Ngô Gia Tự, phường Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội (vắng mặt tại phiên tòa).

4.8. Văn phòng công chứng HK do ông Nguyễn Đức Tú - Trưởng Văn phòng là đại diện theo pháp luật; trụ sở: Số 74, Nguyễn Hữu Huân, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội (vắng mặt tại phiên tòa).

4.9. Văn phòng công chứng V do ông Phạm Quang Hưng - Trưởng Văn phòng là đại diện theo pháp luật; trụ sở: Số 219C, phố Nguyễn Ngọc Vũ, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (vắng mặt tại phiên tòa).

4.10. Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh do ông Nguyễn Xuân Linh - Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh đại diện theo uỷ quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh (Giấy uỷ quyền số 01/UBND-UQ ngày 16/01/2019); trụ sở: Đường Cao Lỗ, Tổ 2, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Bưu Điện LV (Lienvietpostbank) và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Theo Hợp đồng tín dụng số 12212/04-54/TDTH và Khế ước nhận nợ số 12212/04-54/KU-001, ngày 26 tháng 04 năm 2012 đã ký giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV (LienvietPostBank) và vợ chồng ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T thì ông K, bà T vay của Ngân hàng số tiền gốc là: 3.000.000.000đ (Ba tỷ đồng); Thời hạn vay: 09 tháng; Mục đích: vay bù đắp tiền mua đất ở; Lãi suất vay trong hạn: 20.5%/năm có điều chỉnh định kỳ 03 tháng/1 lần; Lãi suất quá hạn: 150% mức lãi suất trong hạn.

Khon nợ trên được bảo đảm bằng tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2, tại thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 277347 do UBND huyện Đông Anh cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha, vào sổ cấp giấy chứng nhận số: 00327.QSDĐ/ML ngày 14/12/1998, đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 09/03/2012 theo Hợp đồng công chứng số 396/HĐCN ngày 29/02/2012 lập tại Văn phòng công chứng Long Biên, thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Trần Đăng K nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 13/04/2012, theo Hợp đồng thế chấp số công chứng: 120814/quyển số 09/HĐTC llập ngày 25/04/2012 tại Văn Phòng công chứng Việt.

Quá trình vay nợ, vợ chồng ông K, bà T mới trả được 2.997.060đồng nợ gốc và một phần nợ lãi trong hạn. Kể từ ngày 26/01/2013 đến nay, ông K, bà T không trả thêm được khoản nợ nào nữa và vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc cùng nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn.

Tm tính đến ngày 31 tháng 03 năm 2019, vợ chồng ông K bà T còn nợ LienvietPostBank số tiền:

- Nợ gốc là : 2.939.295.000đ - Nợ lãi trong hạn là: 29.748.398đ - Nợ lãi quá hạn là : 4.695.126 .4 06đ Tổng cộng : 7.664.169.804đ (Bẩy tỷ sáu trăm sáu mươi tư triệu một trăm sáu mươi chín ngàn tám trăm linh tư đồng).

Ngân hàng yêu cầu ông K bà T có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ gốc và lãi nêu trên cùng với nợ lãi phát sinh trên số dư nợ gốc theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ tính từ ngày 01 tháng 04 năm 2019 cho đến khi thanh toán hết nợ gốc cho Ngân hàng.

Trường hợp ông K, bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nêu trên, nguyên đơn có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý toàn bộ tài sản bảo đảm nêu trên để thu hồi nợ.

Bị đơn ông Trần Đăng K và bà Đỗ Thị Thanh T trình bày:

Ông K, bà T nhất trí với lời trình bày của đại diện ngân hàng về việc vay nợ theo Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp đã ký giữa hai bên cũng như số tiền nợ gốc và lãi ông bà chưa trả cho ngân hàng. Do điều kiện làm ăn, kinh doanh của vợ chồng không thuận lợi, bị thua lỗ, kinh tế khó khăn nên không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng cam kết với Ngân hàng. Năm 2013, ông bà đã có đơn gửi Ngân hàng, nội dung đồng ý để ngân hàng xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ của ông bà nhưng ngân hàng không thực hiện được, không phải lỗi của ông bà. Tại thời điểm hiện nay, ông bà không có khả năng thanh toán khoản nợ cho Ngân hàng bằng tiền nên đồng ý để ngân hàng nhận và xử lý tài sản bảo đảm nêu trên để thu hồi nợ.

Đi với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền tại thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là tài sản hợp pháp của ông bà trên cơ sở ông bà nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Hồng, được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 13/04/2012. Ông bà không chấp nhận việc ông Nguyễn Văn Kha và gia đình ông Kha yêu cầu Toà án huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như huỷ hợp đồng thế chấp giữa ông bà với ngân hàng, vì các giao dịch đó là hoàn toàn hợp pháp, ông bà không có lỗi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

1. Ông Nguyễn Văn Kha trình bày :

Gia đình ông có thửa đất ở số 71, tờ bản đồ số 8, diện tích 486,3m2, thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 277347, vào sổ cấp giấy chứng nhận số: 00327.QSDĐ/ML ngày 14/12/1998 mang tên ông là chủ hộ sử dụng. Thửa đất có vị trí: Phía bắc giáp nhà chị Thuý; phía đông giáp nhà ông Học; phía nam và phía tây đều giáp tiểu ngõ. Năm 2010, gia đình ông xây dựng một ngôi nhà kiểu biệt thự 03 tầng cùng các công trình phụ trên đất như: Nhà kho, sân gạch, tường bao, cổng. Ngoài ra, trên đất có trồng một số cây ăn quả như: Nhãn, Bưởi, Dừa, vv...

Năm 2011 vợ chồng ông có vay của ông Ngô Văn Phú - Sinh năm 1968; trú tại: Số 128, phố Minh Khai, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh số tiền 200.000.000đồng để làm ăn. Hai bên có đến Văn phòng công chứng Long Biên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất như trên để làm tin. Năm 2012, đến hạn trả nợ nhưng do không có tiền nên qua người quen giới thiệu, vợ chồng ông đã vay của bà Nguyễn Thị Hồng số tiền 300.000.000đồng để trả cho ông Phú với điều kiện gia đình ông phải ra công chứng huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Phú, đồng thời ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho bà Hồng. Gia đình ông đã cùng với ông Phú ký văn bản huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên, đồng thời ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất với bà Hồng tại Văn phòng công chứng Long Biên ngày 29/02/2012, sau khi bà Hồng giao cho ông số tiền 300.000.000đồng để trả cho ông Phú. Hai bên hẹn khi nào gia đình ông trả cho bà Hồng tiền vay thì bà Hồng trả lại giấy chứng nhận. Để tránh việc bà Hồng sử dụng tài sản của gia đình ông vào việc thế chấp, cầm cố, chuyển nhượng, vv…cho người khác, ngày 20 tháng 03 năm 2012, tại Văn phòng luật sư Hà Lan và cộng sự; địa chỉ: Số 20, ngõ 158/63, phố Nguyễn Văn Cừ, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, có sự tham gia chứng kiến, soạn thảo văn bản giúp hai bên của ông Nguyễn Văn Hà - Trưởng Văn phòng luật sư, sau khi thoả thuận, giữa ông và bà Hồng đã ký “Biên bản thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở”, “Giấy nhận tiền đặt cọc đợt 1” và bà Hồng ký “Bản cam kết” cho ông giữ. Nội dung thoả thuận thể hiện: Hai bên thoả thuận giá chuyển nhượng nhà đất của gia đình ông là 07 tỷ đồng, đã được bà Hồng đặt cọc 300.000.000đồng. Trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày ký thoả thuận, bà Hồng không thanh toán số tiền 6,7 tỷ đồng còn lại cho gia đình ông thì gia đình ông không phải trả cho bà Hồng tiền đặt cọc; gia đình ông có trách nhiệm bàn giao nhà đất cho bà Hồng khi được bà Hồng thanh toán 6,7 tỷ đồng. Năm 2015, khi cán bộ của Ngân hàng Bưu Điện LV đến gia đình ông nói là làm thủ tục để xử lý tài sản thế chấp thì gia đình ông mới biết việc bà Hồng đã chuyển nhượng nhà đất của gia đình ông cho ông Trần Đăng K, vợ chồng ông K, bà T dùng tài sản đó đưa vào thế chấp để vay tiền của ngân hàng.

Ông xác định: Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa gia đình ông với bà Hồng như nêu trên là hợp đồng giả tạo để che đậy giao dịch vay tiền giữa hai bên.

Ngày 16 tháng 11 năm 2017 ông Kha có đơn yêu cầu độc lập đề nghị huỷ các hợp đồng chuyển nhượng đất giữa gia đình ông và bà Hồng, giữa bà Hồng với ông K; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện xác nhận cho bà Hồng, ông K; huỷ hợp đồng thế chấp tài sản của ông K với Ngân hàng để trả lại quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp về nhà đất của gia đình ông. Ông và gia đình không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng và bị đơn về xử lý tài sản thế chấp thuộc sở hữu, sử dụng hợp pháp của gia đình ông.

2. Bà Nguyễn Thị Huệ, anh Nguyễn Đình Quân, chị Nguyễn Thanh Hải và cụ Nguyễn Thị Viết cùng trình bày thống nhất với lời khai và quan điểm của ông Nguyễn Văn Kha như nội dung nêu trên.

3. Bà Nguyễn Thị Hồng trình bày:

Năm 2012, khi ông Nguyễn Văn Kha và bà Nguyễn Thị Huệ đặt vấn đề vay của bà Hồng 300.000.000đồng để trả nợ cho ông Ngô Văn Phú là chủ nợ vay trước đó đã đến hạn nếu không sẽ bị mất nhà đất, bà Hồng đã đồng ý cho vay với điều kiện gia đình ông Kha phải ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho bà Hồng tại Văn phòng công chứng Long Biên để làm tin. Sau khi có hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên, bà đã làm thủ tục sang tên nhà đất và được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 09 tháng 03 năm 2012, gia đình ông Kha vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất. Bà cũng công nhận việc bà và gia đình ông Kha có thoả thuận và cam kết với nhau về việc chuyển nhượng nhà đất của gia đình ông Kha với giá là 07 tỷ đồng, trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày ký thoả thuận 20 tháng 03 năm 2012 bà Hồng không được phép chuyển nhượng hoặc cho tặng cho bất kỳ bên thứ ba nào khác, trừ trường hợp hộ gia đình ông Kha đồng ý. Trường hợp bà Hồng mang tài sản đi thế chấp để vay vốn ngân hàng thì bà có trách nhiệm thanh toán toàn bộ khoản vay cho ngân hàng để giải chấp giấy tờ nhà đất để tạo điều kiện cho gia đình ông Kha chuộc lại.

Ngày 08 tháng 04 năm 2012, bà có ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên cho ông Trần Đăng K với mục đích để giúp ông K có tài sản vay được vốn của ngân hàng khoảng 02 tỷ đồng để làm ăn, kinh doanh, sau khi ông K trả được vốn vay sẽ làm thủ tục chuyển nhượng lại cho bà đứng tên chủ sở hữu, sử dụng nhà đất. Khi bà biết ông K vay 03 tỷ đồng của Ngân hàng LienvietpostBank không trả được và đi đâu không rõ địa chỉ, bà đã đứng ra nhận trả nợ thay cho ông K tại Ngân hàng nhưng không thực hiện được do không tìm, gọi được ông K về để giải quyết.

Bà xác định, thực chất giao dịch giữa bà và vợ chồng ông Kha bà Huệ chỉ là cho nhau vay tiền, có đảm bảo bằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất của gia đình ông Kha cho bà. Việc bà làm thủ tục sang tên quyền sở hữu sử dụng nhà đất của gia đình ông Kha, bà Huệ cho bà để từ đó chuyển nhượng cho ông K với mục đích giúp ông K vay được tiền của ngân hàng dẫn đến hậu quả ông K không trả được nợ cho ngân hàng là hoàn toàn do lỗi của bà. Nay bà đề nghị Toà án giải quyết:

- Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Kha.

- Ghi nhận sự tự nguyện của bà trả nợ thay vợ chồng ông K, bà T vay tại Ngân hàng số tiền 03 tỷ đồng tiền gốc.

- Đối với khoản tiền bà cho ông Kha bà Huệ vay, bà không yêu cầu Toà án giải quyết mà để hai bên tự giải quyết với nhau.

4. Văn phòng công chứng Long Biên, Văn phòng công chứng Hoàn Kiếm và Văn phòng công chứng Việt đều có quan điểm xác định việc công chứng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình ông Nguyễn Văn Kha với bà Nguyễn Thị Hồng; giữa bà Nguyễn Thị Hồng với ông Trần Đăng K và việc công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T với Ngân hàng LienvietPostBank là hoàn toàn đúng trình tự, thủ tục, phù hợp với quy định của pháp luật.

5. Người đại diện theo uỷ quyền của UBND huyện Đông Anh trình bày :

Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thực hiện thủ tục đăng ký biến động đối với thửa đất ở số 71, tờ bản đồ số 8 thuộc thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Trong quá trình xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các thửa đất, Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh không nhận được bất kỳ đơn thư, khiếu nại nào có liên quan. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng dất, các chủ sử dụng đã thực hiện đăng ký biến động đất đai theo đúng trình tự thủ tục quy định.

Tại bản án sơ thẩm số 14/2019/DSST ngày 14/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV đối với ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T.

2. Buộc ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 12212/04-54/TDNH và Khế ước nhận nợ số 12212/04-54/KU-001 ngày 26 tháng 04 năm 2012 tạm tính đến ngày 31 tháng 03 năm 2019 là:

- Nợ gốc : 2.939.295.000đ - Nợ lãi trong hạn: 29. 748.398đ - Nợ lãi quá hạn : 4 .6 95 .126 .406 đ Tổng cộng : 7.664.169.804đ (Bẩy tỷ sáu trăm sáu mươi tư triệu một trăm sáu mươi chín ngàn tám trăm linh tư đồng).

- Ông K, bà T tiếp tục phải trả nợ lãi phát sinh trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng tính từ ngày 01 tháng 04 năm 2019 cho đến khi thanh toán xong nợ gốc cho Ngân hàng.

3. Trường hợp ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nêu trên, Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý toàn bộ tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2, ở địa chỉ: Thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 277347 do Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha vào sổ cấp giấy chứng nhận số 00327.QSDĐ/ML ngày 14 tháng 12 năm 1998, (Đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 09 tháng 03 năm 2012; theo Hợp đồng công chứng số 396/HĐCN ngày 29 tháng 02 năm 2012 lập tại Văn phòng công chứng Long Biên) thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Trần Đăng K (ông K nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 13 tháng 04 năm 2012), theo Hợp đồng thế chấp số công chứng: 20814/2012, quyển số 03-2014 lập ngày 25 tháng 04 năm 2012 tại Văn Phòng công chứng Việt.

4. Buc các thành viên trong gia đình ông Nguyễn Văn Kha, bà Nguyễn Thị Huệ có trách nhiệm chuyển đi nơi khác để trả lại nhà, đất cho ông Trần Đăng K thực hiện nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng.

5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Kha đối với các yêu cầu:

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Hồng và gia đình ông Nguyễn Văn Kha, theo Hợp đồng công chứng số 396/HĐCN lập ngày 29 tháng 02 năm 2012 tại Văn phòng công chứng Long Biên;

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Hồng và ông Trần Đăng K, theo Hợp đồng công chứng số 920/2012/HĐCN lập ngày 08 tháng 04 năm 2012 tại Văn phòng công chứng Hoàn Kiếm;

- Hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T, theo Hợp đồng công chứng số 120814/2012 lập ngày 29 tháng 02 năm 2012 tại Văn phòng công chứng Việt;

6. Buc bà Nguyễn Thị Hồng có trách nhiệm thanh toán cho gia đình ông Nguyễn Văn Kha, bà Nguyễn Thị Huệ số tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất còn thiếu là: 7.724.432.200đ (Bẩy tỷ bẩy trăm hai mươi bốn triệu bốn trăm ba mươi hai ngàn hai trăm đồng).

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của các bên đương sự.

Không đồng ý với quyết định bản án sơ thẩm, ngày 28/5/2019, ông Nguyễn Văn Kha, cụ Nguyễn Thị Viết, bà Nguyễn Thị Huệ, anh Nguyễn Đình Quân, anh Nguyễn Quốc Khánh, chị Nguyễn Thanh Hải có đơn kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Kha.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu độc lập của ông Kha và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong gia đình của ông Kha.

Bị đơn không có đơn kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc tính lãi suất của Ngân hàng chưa phù hợp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Kha, cụ Nguyễn Thị Viết, bà Nguyễn Thị Huệ, anh Nguyễn Đình Quân, anh Nguyễn Quốc Khánh, chị Nguyễn Thanh Hải giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn - ông Trần Đăng K, sau khi trình bày luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông K, đề nghị:

- Xác định giao dịch giữa bà Nguyễn Thị Hồng với gia đình ông Kha về việc chuyển nhượng nhà đất là hòan toàn hợp pháp, Bản cam kết lập ngày 20/3/2012 được thực hiện sau khi các bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất giữa bà Hồng với gia đình ông Kha được công chứng tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên không có căn cứ xác định là vô hiệu, trên cơ sở đó bà Hồng hoàn toàn có quyền chuyển nhượng nhà đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình cho anh Khoa.

- Việc ông Trần Đăng K sử dụng tài sản là nhà, đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên mình thế chấp cho Ngân hàng là đúng quy định, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc ông K đã bàn giao tài sản thế chấp cho Ngân hàng từ năm 2013 nên phải xác định ông K đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Ngân hàng, do vậy không có căn cứ tính lãi suất đối với ông K sau thời gian này.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Văn Kha, sau khi trình bày luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Kha đề nghị:

Xác định giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2 ti địa chỉ: Thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữa bà Hồng với gia đình ông Kha là giao dịch giả tạo vì bản chất là che giấu quan hệ vay tiền, thực tế gia đình ông Kha vẫn đang quản lý, sử dụng đối với thửa đất này. Do xác định là giả tạo nên Hợp đồng chuyển nhượng công chứng số 396/HĐCN ngày 29 tháng 02 năm 2012 lập tại Văn phòng công chứng Long Biên phải xác định là vô hiệu.

Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và buộc gia đình ông Kha trả lại nhà đất đã thế chấp là phản ánh không đúng bản chất sự việc.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Kha, huỷ hợp đồng chuyển nhượng giữa gia đình ông Kha với bà Nguyễn Thị Hồng, giữa bà Nguyễn Thị Hồng với ông K; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh xác nhận cho bà Hồng và ông K; huỷ hợp đồng thế chấp tài sản của ông K với Ngân hàng LienvietPostBank.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xác định giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2 tại địa chỉ: Thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữa bà Hồng với gia đình ông Kha là giao dịch giả tạo. Hợp đồng chuyển nhượng công chứng số 396/HĐCN ngày 29 tháng 02 năm 2012 lập tại Văn phòng công chứng Long Biên bị vô hiệu.

Không có căn cứ xác định giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2 tại địa chỉ: thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữa bà Hồng với ông K và giao dịch thế chấp tài sản là thửa đất nêu trên giữa ông K với Ngân hàng LienvietpostBank là giao dịch vô hiệu.

Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm đối với nôi dung nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Kha, cụ Nguyễn Thị Viết, bà Nguyễn Thị Huệ, anh Nguyễn Đình Quân, anh Nguyễn Quốc Khánh, chị Nguyễn Thanh Hải có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định là hợp lệ.

- Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án không có đơn kháng cáo; Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Hồng (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án), đã được sao chụp tài liệu và tống đạt thông báo mở lại phiên tòa hợp lệ nhưng tại phiên toà đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

2. Về Nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

2.1.Xét tính hợp pháp của Hợp đồng tín dụng:

Ngày 26 tháng 04 năm 2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV (LienvietPostBank) và vợ chồng ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T ký kết Hợp đồng tín dụng số 12212/04-54/TDTH và Khế ước nhận nợ số 12212/04-54/KU- 001, trên cơ sở đó ông K, bà T vay của Ngân hàng LienvietPostBank số tiền 3.000.000.000đồng (Ba tỷ đồng), thời hạn vay 09 tháng.

Quá trình vay nợ, vợ chồng ông K, bà T mới trả được 2.997.060đồng (hai triệu, chín trăm chín bảy ngàn, sáu mươi đồng) nợ gốc và một phần nợ lãi trong hạn. Kể từ ngày 26/01/2013 đến nay, ông K, bà T không trả thêm được khoản nợ nào cho Ngân hàng. Do vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng LienvietPostBank đã khởi kiện yêu cầu ông K, bà T phải trả cho Ngân hàng khoản nợ gốc và lãi tính đến ngày 31.3.2019 là 7.664.169.804đồng, bao gồm nợ gốc là 2.939.295.000đồng, nợ lãi trong hạn là 29.748.398đồng, nợ lãi quá hạn là 4.695.126.406đồng Xét Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa người đại diện có thẩm quyền của Ngân hàng LienvietPostBank với ông K, bà T, có hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên tự nguyện giao kết thực hiện hợp đồng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung hợp đồng. Tại thời điểm ký kết hợp đồng các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên được xác định là hợp pháp và có hiệu lực đối với các bên tham gia. Do vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng LienvietPostBank khởi kiện yêu cầu bị đơn ông K, bà T có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ gốc và lãi nêu trên cùng với nợ lãi phát sinh trên số dư nợ gốc theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ tính từ ngày 01 tháng 04 năm 2019 cho đến khi thanh toán hết nợ gốc cho Ngân hàng là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Đi chiếu với bảng sao kê tính lãi đến ngày 31/3/2019 do Ngân hàng LienvietPostBank cung cấp thì lãi suất được tính và điều chỉnh theo từng thời kỳ, phù hợp với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng và các quy định của pháp luật.

Đi với khoản tiền lãi ông K và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông K đề nghị chỉ chấp nhận tính lãi chậm trả của khoản nợ gốc đến thời điểm ông K bàn giao tài sản cho Ngân hàng từ tháng 07/2013, tuy nhiên ông K không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc bàn giao tài sản bảo đảm cho Ngân hàng nên không có cơ sở chấp nhận đề nghị của ông K cũng như Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông K.

2.2 Xét tính hợp pháp của Hợp đồng thế chấp:

- Xét Hợp đồng thế chấp số công chứng: 120814/quyển số 09/HĐTC, lập ngày 25/04/2012 tại Văn Phòng công chứng Việt. Tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay của ông K, bà T là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2, tại thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 277347 do UBND huyện Đông Anh cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha, vào sổ cấp giấy chứng nhận số: 00327.QSDĐ/ML ngày 14/12/1998, (đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 09/03/2012 theo Hợp đồng công chứng số 396/HĐCN ngày 29/02/2012 lập tại Văn phòng công chứng Long Biên) thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Trần Đăng K nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực ngày 13/04/2012.

Theo Hợp đồng thế chấp thì tài sản thế chấp là tài sản cùng các quyền và lợi ích phát sinh từ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên thế chấp. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp và Tòa án thu thập được thể hiện, các bên ký kết hợp đồng thế chấp nêu trên là hoàn toàn tự nguyện, tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, mục đích nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội. Tại thời điểm công chứng các bên ký kết có mặt và tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng, đã đọc và nhất trí ký vào hợp đồng trước mặt Công chứng viên, tài sản thế chấp được đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 26/4/2012 tại văn phòng đăng ký đất và nhà huyện Đông Anh nên được xác đinh là hợp pháp, có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia ký kết, các bên có quyền và nghĩa vụ phải thực hiện. Trường hợp ông K và bà T không trả đầy đủ các khoản tiền nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án tiến hành kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho Ngân hàng.

2.3 Xét yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Kha Ngày 16 tháng 11 năm 2017, ông Kha có đơn yêu cầu độc lập đề nghị huỷ các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình ông và bà Nguyễn Thị Hồng, giữa bà Nguyễn Thị Hồng với ông Trần Đăng K; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh xác nhận cho bà Hồng và ông K; huỷ hợp đồng thế chấp tài sản của ông K với Ngân hàng LienvietPostBank; trả lại quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp về nhà đất cho gia đình ông ; không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng và bị đơn đề nghị xử lý tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của gia đình ông Kha.

Căn cứ để ông Kha có đơn yêu cầu độc lập xuất phát từ việc vợ chồng ông Kha có vay của bà Hồng số tiền tổng cộng là 320.000.000đồng để trả nợ cho người mà ông Kha đã vay trước đó. Để vay được khoản tiền này ông Kha và các thành viên trong hộ gia đình ông Kha phải ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2, tại thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha.

Bà Nguyễn Thị Hồng cũng xác nhận trình bày của ông Kha là đúng. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, bà Hồng đã làm thủ tục sang tên nhà đất và được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh chứng thực vào ngày 09 tháng 03 năm 2012. Ngày 08 tháng 04 năm 2012, bà Hồng đã ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho ông Trần Đăng K để ông K có tài sản vay được vốn của ngân hàng.

Bà Hồng khẳng định, không có giao dịch chuyển nhượng giữa bà và vợ chồng ông Kha, bà Huệ mà thực tế là cho nhau vay tiền. Bà đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa bà với gia đình ông Kha, bà Huệ (BL293, 294).

Xem xét tài liệu, chứng cứ thu thập được nhận thấy, tại Bản cam kết ngày 20.3.2012 (BL 161), bà Hồng cam kết cho gia đình ông Kha chuộc lại nhà đất trong thời hạn 3 năm với điều kiện phải trả cho bà Hồng số tiền 320.000.000đồng kể từ ngày 19/2/2012, lãi suất 18%/năm đến khi ông Kha thanh toán, bà Hồng vẫn để cho ông Kha và gia đình ông Kha quản lý, sử dụng nhà, đất nêu trên. Trong thời hạn 3 năm bà Hồng không được quyền chuyển nhượng hoặc cho tặng bất kỳ bên thứ ba nào khác, trừ trường hợp được gia đình ông Kha đồng ý...

Giấy nhận tiền đặt cọc ngày 28/2/2012 và ngày 20/3/2012 (BL 154) thể hiện, bà Huệ nhận 300.000.000đồng tiền đặt cọc của bà Hồng; Ngày 18/11/2012 (BL 162), bà Huệ nhận thêm 20.000.000đồng, tổng cộng là 320.000.000đồng.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hộ gia đình ông Kha (ông Kha, bà Huệ, anh Quân, chị Hải) với bà Hồng lập tại Văn phòng công chứng Long Biên, số công chứng 396/2012HĐCN, trong Hợp đồng ghi giá chuyển nhượng 1 tỉ đồng… Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và Tòa án thu thập được, có căn cứ xác định giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2 tại thôn Du nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, giữa hộ gia đình ông Kha, bà Huệ với bà Nguyễn Thị Hồng là giao dịch giả tạo nhằm che giấu việc vợ chồng ông Kha, bà Huệ vay nợ của bà Hồng số tiền 320.000.000đồng. Do xác định là giao dịch giả tạo nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa hộ gia đình ông Kha với bà Hồng phải bị xác định là vô hiệu. Tuy nhiên do các bên cùng che giấu mục đích chuyển nhượng nên khi thực hiện việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng, Văn phòng Công chứng Long Biên không biết nên không có lỗi trong việc thực hiện công chứng đối với Hợp đồng này.

Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào Biên bản thỏa thuận ngày 20/3/2012 và cho rằng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại cơ quan có thẩm quyền để xác định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa bà Hồng với hộ gia đình ông Kha là hợp pháp, hợp đồng có hiệu lực nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên là chưa đánh giá đầy đủ các tài liệu, chứng cứ thu thập được và không phù hợp với thực tế, trên cơ sở đó buộc các bên phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng là giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Yêu cầu độc lập và yêu cầu kháng cáo của ông Kha cùng các thành viên trong hộ gia đình ông Kha là có cơ sở chấp nhận một phần. Tòa án cấp phúc thẩm cần phải sửa bản án sơ thẩm, tuy nhiên không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong vụ án này do các đương sự chưa có yêu cầu.

Đi với nội dung yêu cầu độc lập khác, Hội đồng xét xử xét thấy:

Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng với bà Hồng, ngày 09 tháng 03 năm 2012, Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh đã chứng thực sang tên cho bà Hồng. Ngày 08 tháng 04 năm 2012, bà Hồng ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Trần Đăng K toàn bộ nhà đất nêu trên tại Văn phòng công chứng Hoàn Kiếm. Ngày 26/4/2012 ông K, bà T đã thế chấp toàn bộ tài sản là nhà đất nêu trên cho Ngân hàng LienvietPost Bank Chi nhánh Đống Đa - PGD Thanh Nhàn để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 12212/04-54/TDTH đã ký ngày 26/4/2012.

Xét thấy, tại thời điểm các bên thực hiện giao dịch chuyển nhượng thì bà Hồng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận là chủ sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2 tại thôn Du nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Khi thực hiện việc chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông K, bà Hồng không nói cho ông K biết nguồn gốc tài sản mà bà có được cũng như nội dung mà bà Hồng và ông Kha đã thỏa thuận ngày 20/3/2012. Bản thân ông K cũng như Ngân hàng LienvietPostBank không biết và không buộc phải biết giao dịch chuyển nhượng giữa bà Hồng với hộ gia đình ông Kha trước đó là giao dịch giả tạo. Căn cứ quy định của pháp luật cần xác định ông K và Ngân hàng LienvietPostBank là người thứ ba ngay tình và phải được pháp luật bảo vệ. Do vậy, mặc dù giao dịch chuyển nhượng thửa đất nêu trên giữa hộ gia đình ông Kha với bà Hồng là giả tạo, hợp đồng chuyển nhượng bị xác định là vô hiệu, nhưng giao dịch chuyển nhượng giữa bà Hồng với ông K và giao dịch thế chấp tài sản giữa ông K, bà T với Ngân hàng LienvietPosstBank được xác định là hợp pháp và không bị coi là vô hiệu, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Trong trường hợp ông K không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản để thu hồi nợ, yêu cầu của Ngân hàng là có căn cứ.

Đi với Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên giữa hộ gia đình ông Kha với bà Hồng bị xác định là vô hiệu, do các bên chưa có yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu trong vụ án này nên để có căn cứ xác định và tính lỗi của mỗi bên dẫn đến Hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu, các bên có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật. Giá trị tài sản được tính tại thời điểm giải quyết vụ án.

Căn cứ Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử không tuyên hủy việc xác nhận của UBND huyện Đông Anh ngày ngày 09 tháng 03 năm 2012 về việc sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Hồng.

Nhng phân tích nêu trên cũng là căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Kha và một phần yêu cầu kháng cáo của những ngừơi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn kháng cáo:

- Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Hồng và hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha, được công chứng số 396/HĐCN, lập ngày 29 tháng 02 năm 2012 tại Văn phòng công chứng Long Biên bị vô hiệu;

- Ông Kha cùng các thành viên trong hộ gia đình ông Kha và bà Nguyễn Thị Hồng có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác về yêu cầu giải quyết hậu quả Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.

- Không chấp nhận đối với những yêu cầu độc lập còn lại của ông Kha;

Phát biểu của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn – ông TRần Đăng Khoa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Kha có căn cứ chấp nhận một phần.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

3. Về án phí:

Ông K, bà T phải nộp 115.664.100đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn Kha là con Liệt sỹ, thuộc đối tượng là thân nhân của Liệt sỹ nên được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Do không giải quyết hậu quả hợp đồng chuyển nhượng tài sản giữa ông Kha với bà Hồng bị vô hiệu nên bà Hồng không có nghĩa vụ phải chịu án phí. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần này.

Do sửa án sơ thẩm nên những người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ các Điều 138, 302, 305, 342, 343, 351, 355, 471, 474, 476, 478, 715, 721 Bộ luật dân sự 2005.

Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Căn cứ Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm;

Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 27/2/2009 về án phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 14/2019/DSST ngày 14/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV đối với ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T.

2. Buộc ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 12212/04-54/TDTH và Khế ước nhận nợ số 12212/04-54/KU-001 ngày 26 tháng 04 năm 2012, tính đến ngày 31 tháng 03 năm 2019 là:

- Nợ gốc : 2.939.295.000đồng - Nợ lãi trong hạn: 29. 748.398đồng - Nợ lãi quá hạn : 4 .6 95 .126 .406 đ ồn g Tổng cộng : 7.664.169.804đồng (Bẩy tỷ sáu trăm sáu mươi tư triệu một trăm sáu mươi chín ngàn tám trăm linh tư đồng).

Kể từ ngày 01 tháng 04 năm 2019, ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T tiếp tục phải trả nợ lãi phát sinh trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ gốc cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV.

3. Trường hợp ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nêu trên, Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2, tại địa chỉ: Thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 277347 do Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha, vào sổ cấp giấy chứng nhận số 00327.QSDĐ/ML ngày 14 tháng 12 năm 1998, đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh xác nhận ngày 09 tháng 03 năm 2012, theo Hợp đồng công chứng số 396/HĐCN ngày 29 tháng 02 năm 2012 lập tại Văn phòng công chứng Long Biên, thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông Trần Đăng K (do ông K nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Hồng được Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh xác nhận ngày 13 tháng 04 năm 2012), theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 120814/quyển số 09/HĐTC ngày 25 tháng 04 năm 2012 tại Văn Phòng công chứng Việt.

4. Trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ thì các Tổ chức, cá nhân đang sinh sống trên tài sản đã thế chấp, có nghĩa vụ bàn giao tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án.

5. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Kha - Xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 396/2012/CNQSDĐ lập ngày 29 tháng 02 năm 2012 tại Văn phòng công chứng Long Biên, đối với thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, diện tích 486,3m2, tại địa chỉ: thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, giữa bà Nguyễn Thị Hồng và các thành viên trong hộ gia đình ông Nguyễn Văn Kha bị vô hiệu;

- Ông Nguyễn Văn Kha cùng các thành viên trong hộ gia đình ông Kha có quyền khởi kiện đối với bà Nguyễn Thị Hồng bằng vụ án dân sự khác về yêu cầu giải quyết hậu quả Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.

6. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn Kha đối với các yêu cầu:

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Hồng và ông Trần Đăng K, được công chứng số 920/2012/HĐCN lập ngày 08 tháng 04 năm 2012 tại Văn phòng công chứng Hoàn Kiếm;

- Hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 120814/quyển số 09/HĐTC, lập ngày 25 tháng 04 năm 2012 tại Văn Phòng công chứng Việt.

7. Về án phí:

7.1. Ông Trần Đăng K, bà Đỗ Thị Thanh T phải nộp: 115.664.100đồng án phí dân sự sơ thẩm (Một trăm mười lăm triệu, sáu trăm sáu mươi tư ngàn một trăm đồng).

7.2. Ông Nguyễn Văn Kha được miễn tiền án phí, ông Kha không phải chịu án phí đối với yêu cầu độc lập không được chấp nhận.

7.3.Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu Điện LV 56.309.000đồng (Năm mươi sáu triệu ba trăm linh chín ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AB/2010/0004824 ngày 13 tháng 10 năm 2015 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

7.4 Hoàn trả lại cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Huệ, ông Kha, chị Hải, anh Quân, anh Khánh) mỗi người 300.000đồng theo các biên lai nộp tiền tạm ứng án phí số 8548, 8549, 8550, 8551, 8552 nộp tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 298/2019/DS-PT ngày 11/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:298/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về