TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 296/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28/11/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 292/2019/HSST ngày 12 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 250/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Lò Văn N, sinh năm 1996.
HKTT: Bản Đứa, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La.
Chỗ ở: Khu Xuân Ổ B, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Lò Văn N (đã chết) và bà Lò Thị H, sinh năm 1964; Vợ, con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2019 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 09/8/2019, Lò Văn N bắt xe bus từ khu Đồng Cao, phường P, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh đến thị xã T, tỉnh Bắc Ninh mua 200.000 đồng ma tuý của một người đàn ông không quen biết được 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có 02 gói giấy bạc nhỏ chưa chất bột màu trắng về để bán kiếm lời. Sau khi mua ma tuý, N bắt xe bus về phòng trọ tại khu X, phường V, thành phố B của anh Nguyễn Xuân C, sinh năm 1971; HKTT: khu Xuân Ổ B, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Tại phòng trọ, N đã sử dụng ½ số ma tuý trong mỗi gói rồi gói số ma tuý còn lại để bán. Đến 12 giờ, ngày 10/8/2019, Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1980; HKTT: Khu 1, phường Đ, thành phố B gọi điện cho N hỏi có ma tuý không bán cho 200.000 đồng, N đồng ý. Đ bảo N đem ma tuý ra quán bia ở khu Xuân Ổ A, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Một lúc sau có bạn của N là anh Bùi Văn C, sinh năm 1982; HKTT: Ngọc Lâu, Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình điều khiển xe mô tô đến N do N rủ đi uống bia. Sau đó, Chung và N ra quán bia Đ hẹn. Tại quán bia, Đ hỏi N có cầm ma tuý không, có cầm ra thì đưa cho anh. N bảo có, Đ đưa cho N 180.000 đồng và bảo chỉ còn thế bớt cho anh, N cầm nhận tiền ở tay phải và đưa lại cho Đ 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có 02 gói giấy bạc nhỏ đều chứa bột màu trắng thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra về trật tự xã hội Công an thành phố B bắt quả tang và thu giữ vật chứng:
* Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Đ: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có 02 gói giấy bạc nhỏ đều chứa bột màu trắng (ký hiệu: M1);
* Vật chứng thu giữ của Lò Văn N: Số tiền 180.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 04 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen đã qua sử dụng.
Ngày 10/8/2019, Cơ quan Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã tiến hành khám xét nơi ở của Ntại khu Xuân Ổ A, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh nhưng không phát hiện, thu giữ gì.
Tại bản kết luận giám định số 581/KLGĐMT-PC09 ngày 13/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:
- Chất bột màu trắng trong bì thư niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng 0,0541 gam; Là ma tuý; Loại ma tuý: Heroin.
Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Với nội dung trên, Cáo trạng số 242/CTr-VKSTPBN ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố Lò Văn Nvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 Bộ luật hình sự.
Quá trình xét hỏi tại phiên toà, bị cáo Lò Văn N khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại cơ quan điều tra. Bị cáo mua ma tuý với mục đích để bán kiếm lời. Ngoài ra, bị cáo không dùng chiếc điện thoại Iphone màu đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo để liên lạc bán ma tuý cho Đ. Tuy nhiên, bị cáo cũng không đề nghị nhận lại chiếc điện thoại này. Bị cáo không có ý kiến gì về kết luận giám định số ma tuý đã thu giữ và thừa nhận Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng. Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên Cáo trạng truy tố Lò Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Khoản 1, Điều 251; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn N từ 24 tháng đến 28 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 180.000 đồng và 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu đen đã qua sử dụng
- Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định
- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo nhất trí với phần luận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Đã thực hiện theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với không gian, phù hợp với thời gian, địa điểm, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 09/8/2019, tại khu Xuân Ổ A, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh Lò Văn N có hành vi bán trái phép 0,0541 gam ma tuý loại Heroin cho Nguyễn Văn Đ với giá 180.000 đồng. Cáo trạng truy tố số 242/CT-VKSNDTPBN ngày 11/11/2019 đã truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 251 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý huỷ hoại sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo còn xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
[4] Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân của bị cáo: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn N phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Ông nội bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo HĐXX xét thấy để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình nhằm thực hiện chính sách khoản hồng của pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, tài sản riêng và thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về tang vật chứng: Số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone màu đen đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo không để nghị nhận lại chiếc điện thoại này và số tiền 180.000đ thu giữ của bị cáo là tiền bị cáo có được do hành vi thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[8] Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho N nhưng N không biết tên, tuổi cụ thể. Do vậy cơ quan điều tra Công an thành phố B chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Văn Đ đã mua số ma tuý do N bán nhưng khối lượng chất ma tuý chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành điều tra xác minh tại khu 1, phường Thị Cầu, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh không có ai tên là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1980 như Đ đã khai. Hiện không rõ Đ ở đâu, chưa xác định được lý lịch của Đ nên Cơ quan điều tra Công an thành phố B chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Xuân C, sinh năm 1971; HKTT: khu Xuân Ổ A, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh cho Nthuê nhà nhưng anh C không biết và Ncũng không nói cho anh C biết việc Nsử dụng và cất giữ ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý đối với anh C là đúng quy định của pháp luật.
Đối với anh Bùi Văn C, sinh năm 1982; HKTT: xã N, huyện L, tỉnh Hoà Bình đã đi cùng N đến quá bia nhưng anh C không biết và N cũng không nói cho anh C biết việc N bán ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý đối với anh C là đúng quy định của pháp luật.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
- Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Xử phạt bị cáo Lò Văn N 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 10/8/2019.
Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 581/KLGĐMT- PC09 ngày 13/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 180.000 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng
- Về án phí: Bị cáo Lò Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 296/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 296/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về