Bản án 296/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 296/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 234/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Viết T, sinh năm 1987

Địa chỉ: Phố 7, Phường Q, Thành Phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Chị Lê Thị M, sinh năm 1988

Địa chỉ: Phố T, thị Trấn Bút Sơn, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn anh Nguyễn Viết T, bị đơn chị Lê Thị M vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/7/2019, bản tự khai ngày 28/8/2019 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn anh Nguyễn Viết T thể hiện:

Tôi (T) và chị Lê Thị M tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND phường Q, thành Phố Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 11 tháng 4 năm 2014. Vợ chồng tôi sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình hai bên không phù hợp, nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7/2017 cho đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chị M. Do tình cảm của tôi đối với chị M không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được nên tôi đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Về con: Tôi( T) và chị Lê Thị M có 01( Một) con chung Nguyễn Viết Đức Minh, sinh ngày 21/01/2015. Hiện nay cháu đang ở với tôi. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị Lê Thị M đến để giải quyết vụ án, nhưng chị vẫn không có mặt.

Theo lời trình bày của ông Lê Khắc Chương (là bố đẻ của chị M) thể hiện: Trong quá trình chung sống giữa chị M và anh T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do quan điểm sống của hai bên không phù hợp đến giữa năm 2017 chị M đã về nhà tôi ở cho đến nay. Vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Hiện nay con gái tôi đi làm tối cháu mới về, khi nào cháu về tôi sẽ có trách nhiệm thông báo cho cháu biết và sẽ động viên cháu đến Tòa án để làm việc, còn cháu có đến hay không là việc của cháu. Khi anh T làm đơn xin ly hôn cháu M. Gia đình cũng đã biết tôi cũng đã trao đổi với cháu, quan điểm của cháu, vợ chồng đã ly thân thời gian dài việc anh T ly hôn thì tùy anh T. Đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh T.

Về con chung: Anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M có 01( Một) con chung, Nguyễn Viết Đức Minh, sinh ngày 21/01/2015. Hiện nay cháu đang ở với anh T, anh có nguyện nuôi con thì chị M cũng đồng ý nhưng quan điểm của chị M là để cháu ở với anh T cho đến khi cháu 12 tuổi thì chị M sẽ đón cháu về nuôi và không yêu cầu về cấp dưỡng.

Về tài sản: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về nguyên nhân xảy ra tranh chấp trong quan hệ vợ chồng anh T và chị M tại UBND Phường Q, thành Phố Thanh Hóa. Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo mở phiên họp, Quyết định đưa vụ án xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho chị M nhưng chị không có mặt. Tòa án đã tống đạt được trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông Lê Khắc Chương( bố đẻ) chị M, ông cam kết nhận văn bản của Tòa án và giao lại các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị M.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về quá trình tố tụng và đề xuất hướng giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đầy đủ, đảm bảo trình tự, thủ tục từ khi thụ lý, mở phiên họp kiểm tra tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và tại phiên tòa. Người tham gia tố tụng đã được thực hiện đầy đủ, đảm bảo các quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định BLTTDS.

Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Viết T kết hôn năm 2014. Vợ chồng sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 7/2017 cho đến nay, vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Nay anh Tình có nguyện vọng xin ly hôn chị M. Đại diện VKS nhận thấy tình cảm vợ chồng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho anh Nguyễn Viết T được ly hôn với chị Lê Thị M theo quy định tại Điều 51, 56 Luật HNGĐ.

Về con chung: Vợ chồng có 01(một) con chung Nguyễn Viết Đức Minh, sinh ngày 21/01/2015. Nay ly hôn anh T có nguyện vọng được nuôi cháu. VKS nhận thấy do cháu Minh đang còn nhỏ từ khi chị M về nhà ngoại ở cháu vẫn ở cùng với anh T. Anh T vẫn đảm bảo cho cháu ăn học bình thường. Đề nghị HĐXX giao cháu Nguyễn Viết Đức Minh cho anh Nguyễn Viết T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng: Anh T không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Nguyễn Viết T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Viết T không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Viết T làm đơn đề nghị ly hôn đến Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng cho chị M, chị biết việc anh T xin ly hôn và chị đưa ý kiến là đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh T. Tại phiên tòa ngày 14/10/2019, do chị M vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị Lê Thị M là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M kết hôn với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân không quan tâm gì đến nhau thể hiện tình cảm anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51,56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Viết T đối với chị Lê Thị M là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[3] Về con: Anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M có 01 con chung là cháu Nguyễn Viết Đức Minh, sinh ngày 21/01/2015. Hiện nay cháu đang ở với anh T. Nay ly hôn anh T có nguyện vọng tiếp tục nuôi cháu Minh.

Xét yêu cầu nuôi con HĐXX xét thấy: Cháu Nguyễn Viết Đức Minh, sinh ngày 21/01/2015, từ khi chị M về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 7/2017 cho đến nay cháu Minh ở với anh T, anh vẫn đảm bảo cho cháu ăn học bình thường. Nay anh T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu. Do đó HĐXX chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh Nguyễn Viết T. Giao cháu Nguyễn Viết Đức Minh cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị M có quyền qua lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[4] Về tài sản: Anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn là anh Nguyễn Viết T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51,56,57,58,81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Viết T được ly hôn chị Lê Thị M.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Viết Đức Minh, sinh ngày 21/01/2015 là con chung của anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M.

Giao cháu Nguyễn Viết Đức Minh cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác về pháp luật. Chị M có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Viết T và chị Lê Thị M không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Nguyễn Viết T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0005757 ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Anh T đã thi hành xong.

Nguyên đơn anh Nguyễn Viết T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn chị Lê Thị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 296/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:296/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về