TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 293/2020/HSST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 315/2020/HSST ngày 02/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 320/2020/QĐXXST-HS ngày 09/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đối với bị cáo:
Họ và tên: Vì Văn Th; sinh năm 1987, tại: Điện Biên; HKTT: xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 9/12; Con ông: Vì Văn C, sinh năm 1940; Con bà: Vì Thị T, sinh năm 1956; Gia đình có 4 anh em bị cáo là con út; Vợ: Lò Thị Xương - (đã chết); Con: Có 01 sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: 01 tiền án Bản án số:163/HSST ngày 13/9/2007 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Bị cáo kháng cáo. Bản án số: 06/HSPT ngày 28/11/2007 Tòa án nhân dân Tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo được khấu trừ 06 tháng 25 ngày đã bị tạm giam, thời gian bị cáo còn phải thi hành hình phạt là 17 tháng 5 ngày, thời gian thử thách là 34 tháng 10 ngày. Xác minh tại Chi cục thi hành án huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên: Bị cáo đã nộp áp phí hình sự sở thẩm theo quyết định của bản án HSPT ngày 28/11/2007. Bị caó đã được xóa án tích.
Bị cáo đầu thú bị tạm giữ ngày 08/8/2020 đến ngày 17/8/2020 hủy bỏ biện pháp tạm giữ hiện áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)
Bị hại:
Anh Lê Văn T, sinh năm 1966; HKTT: Tổ 7 phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội. (xin xét xử vắng mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Vũ Đức L, sinh năm 1989; HKTT: Xuân Đài, Xuân Trường, Nam Định.
Chỗ ở: phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội. (xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 08/8/2020, Công an phường Phúc Lợi nhận được đơn trình báo của của anh Lê Văn T (sinh năm: 1966, HKTT: phường Phúc Lợi, Long Biên, Hà Nội) về việc: khoảng 11 giờ 10 phút ngày 01/8/2020, tại cửa hàng tạp hóa chợ Phúc Lợi thuộc phường Phúc Lợi, Long Biên, Hà Nội anh T bị một đối tượng nam thanh niên lén lút trộm cắp 01(một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone Xsmax 256GB, có số IMEI: 357304091559265 đã qua sử dụng.
Nhận được tin báo Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra làm rõ: Bản thân Th đang làm công nhân xây dựng tại công trường Vincom thuộc phường Phúc Lợi, Long Biên, Hà Nội. Khoảng 11 giờ ngày 01/8/2020, Th có mượn xe máy của một người cùng làm tại công trường Vincom để đi đến quán tạp hóa kiốt số 2 chợ Phúc Lợi của anh Lê Văn T để mua nước ngọt và đá lạnh để uống. Tại đây, Th quan sát thấy trên mặt thùng bia trong cửa hàng có để 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này. Lợi dụng lúc anh T đang bận bán hàng, đứng ở gian hàng bên cạnh, không chú ý quan sát đến chiếc điện thoại, Th đã đi lại gần và dùng tay trái lấy chiếc điện thoại này rồi cất vào túi quần bên trái. Sau đó, Th thanh toán tiền nước ngọt và đá lạnh rồi đi đến công trình xây dựng đang làm việc. Đến chiều ngày 01/8/2020, Th quay về nhà trọ đường Phúc Lợi, tổ 5, phường Phúc Lợi, Long Biên và giấu chiếc điện thoại đã trộm cắp được của anh T vào bên trong túi đồ của mình. Ngày 03/8/2020, Th mang chiếc điện thoại này đến cửa hàng điện thoại của anh Vũ Đức L (SN:
đường Phúc Lợi, Long Biên, Hà Nội để bán. Trên đường đi khi qua đầu ngõ 193, đường Phúc Lợi, Th có tháo ốp lưng chiếc điện thoại vứt vào bụi cây ven đường. Khi vào bán điện thoại tại đường Phúc Lợi chủ cửa hàng có hỏi Th về nguồn gốc chiếc điện thoại, Th trả lời đây là điện thoại do Th nhặt được muốn bán với giá 1.500.000 đồng người chủ cửa hàng không đồng ý và chỉ đồng ý mua với giá 1.300.000 đồng, Th đồng ý bán và đã tiêu sài cá nhân hết số tiền này.
Ngày 08/8/2020 Vì Văn Th đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên phù hợp với lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Tang vật thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xsmax 256GB, có số IMEI: 357304091559265 đã qua sử dụng; 01 hộp đựng điện thoại bằng giấy trên có ghi chữ Iphone; 01 USB ghi lại video vụ trộm. Đối với chiếc ốp lưng của chiếc điện thoại trên, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát nhưng không thu giữ được.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 138/KL-HS ngày 21/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên xác định: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone Xsmax 256GB màu vàng Gold đã qua sử dụng trị giá 10.800.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại Iphone Xsmax chất liệu nhựa đã qua sử dụng trị giá: 10.000 đồng; 01 miếng dán cường lực điện thoại Iphone Xsmax đã qua sử dụng trị giá 10.000 đồng; sim trị giá: 0 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 10.820.000 đồng.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Vì Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như tình tiết nêu nội dung trên. Lời khai của Th phù hợp với lời khai của người bị hại, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu điều tra thu thập được.
Tại Bản cáo trạng số 312/CT-VKS-LB ngày 29/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Vì Văn Th về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa: Bị cáo Vì Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa như sau: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Vì Văn Th đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 15 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: 01 chiếc USB do anh Lê Anh T giao nộp cho Cơ quan điều tra có chứa đoạn video ghi lại hình ảnh bị cáo trộm cắp và anh Tuấn không yêu cầu lấy lại nên lưu giữ kèm theo hồ sơ vụ án. Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Văn T đã nhận lại tài sản chiệc điện thoại Iphone bị mất, anh Vũ Đức L đã được bị cáo hoàn trả số tiền 1.300.000 đồng là số tiền anh bỏ ra mua chiếc Iphone từ bị cáo. Anh T và anh L không yêu cầu gì Th về dân sự nên không xem xét. Về vấn đề khác: Đối với anh Vũ Đức L là người mua chiếc điện thoại Iphone Xsmax 256GB của Th, anh hoàn toàn không biết tài sản là do trộm cắp mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là đúng pháp luật.
Nói lời sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.
.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 01/8/2020 tại cửa hàng tạp hóa kiốt số 2 chợ Phúc Lợi thuộc phường Phúc Lợi, Long Biên, Hà Nội Vì Văn Th có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone Xsmax 256GB cùng 01 sim; 01 ốp lưng điện thoại Iphone XS Max; 01 miếng dán cường lực điện thoại Iphone XS Max của anh Lê Văn T, trị giá: 10.8200.000đ (Mười triệu tám trăm hai mươi ngàn đồng).
Hành vi của bị cáo Vì Văn Th đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản của họ, mục đích bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án đã được xóa nên có nhân thân xấu.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả và tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải và đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[6] Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tù trong khung hình phạt cách ly bị cáo ra ngoài xã một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Văn T đã nhận lại tài sản chiệc điện thoại Iphone bị mất, anh Vũ Đức L đã được bị cáo hoàn trả số tiền 1.300.000 đồng là số tiền anh bỏ ra mua chiếc Iphone từ bị cáo. Anh T và anh L không yêu cầu gì Th về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đề nghị giải quyết về trách nhiệm dân sự của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[9] Về vấn đề khác: Đối với anh Vũ Đức L là người mua chiếc điện thoại Iphone của anh Lê Văn T từ bị cáo, anh Liễu hoàn toàn không biết tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là đúng pháp luật.
[10] Về xử lý vật chứng: 01 (một) chiếc USB nhãn hiệu Kingston do anh Lê Văn T nộp cho Cơ quan điều tra bên trong có chứa 01 tệp video được trích xuất từ camera ghi lại hình ảnh bị cáo trộm cắp. Xét đây là vật chứng của vụ án và anh Tuấn không yêu cầu lấy lại chiếc USB này nên lưu giữ chiếc USB kèm theo hồ sơ vụ án.
Đề nghị của Viện kiểm sát về phần xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[12] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 260 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Vì Văn Th 8 (Tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 08/8/2020 đến ngày 17/8/2020.
Về hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền đối với bị cáo Vì Văn Th.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;
- Lưu giữ 01 (một) chiếc USB nhãn hiệu Kingston kèm theo hồ sơ vụ án.
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án 293/2020/HSST ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 293/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về