Bản án 293/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 293/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 296/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 304/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Lương Đình H, sinh ngày 24/5/1988.

Nơi ĐKHKTT: Xóm V, xã H, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Văn hóa: lớp 12/12; Nghề nghiệp: không. Con ông: Lương Văn C, sinh năm 1959; Con bà: Nguyễn Thị T (đã chết); Gia đình có 03 chị, em, bị cáo là thứ hai; chưa có vợ, con. Tiền sự: Không.

Tiền án: tại bản án số 204 ngày 10/6/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Ti bản án số 152 ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Nhân thân: Tại bản án số 42 ngày 20/4/2009 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 14/01/2019 đến nay (Có mặt tại phiên tòa)

* Người có quyền lợi liên quan: ơng Văn C, sinh năm 1959 (bố bị cáo, có mặt tại phiên tòa)

Nơi cư trú: xóm V, xã H, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

* Người chứng kiếnAnh Phạm Đình H, sinh năm 1959 (vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ H, phường CH, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 14/01/2019, tổ công tác phòng Cảng sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên nhận được tin tố giác tội phạm của quần chúng nhân dân, tại quán các phê Q thuộc tổ H, phường CH, thành phố TH có 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra nam thanh niên khai tên là Lương Đình H. H khai nhận đang cất giấu trái phép ma túy trong người, tổ công tác kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái H đang mặc trên người 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (H khai là Heroine mau về để sử dụng cho bản thân), tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với Lương Đình H, thu giữ, niêm phong vật chứng.

Ngoài ra còn thu giữ của H 01 điện thoại nhãn hiệu Sam Sung có vỏ màu đen kèm theo sim số 0359985XXX, 01 ví giả da màu nâu bên trong có 500.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Đình H; 01 đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thị H; 01 xe mô tô nhãn hiệu Motostar màu xanh BKS 20H1 – 56XX số khung B4X – 0134XX số máy GV – 0134XX.

Hi 17 giờ 00 phút ngày 14/01/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lương Đình H kết quả không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của H tổng khối lượng 2,90gam .

Tại bản kết luận giám định số 300/KL – PC09 ngày 21/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu A1 thu giữ của Lương Đình H gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi đến giám định là 0,35g. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 2,90gam.

Tại bản cáo trạng số 288/CT-VKSTPTN ngày 22/5/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Lương Đình H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 BLHS.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay Lương Đình H khai nhận: Hồi 12 giờ ngày 14/01/2019, có người phụ nữ tên H nhà ở GT (không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) là người quen biết với H gọi điện hỏi H có biết chỗ nào mua ma túy thì đi mua về để bán lại cho H, H sẽ trả thêm tiền, H đồng ý. Đến khoảng 14 giờ 40 phút ngày 14/01/2019 H một mình điều khiển xe mô tô BKS 20H1-56XXđi từ nhà đến khu vực xóm AT, xã H, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, tại đây H gặp và mua của một người tên K là bạn học (không rõ tên đệm, địa chỉ cụ thể) 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng (Heroine) với giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua xong H đem về trước cửa quán cà phê Q thuộc tổ H, phường CH, thành phố TH để bán lại cho chị H với giá 1.800.000 đồng nhưng chưa kịp bán thì bị Công an bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Ông Lương Văn C khai: Chiếc xe máy BKS 20H1-56XX là của ông mua nhưng chưa sang tên đổi chủ. Ông không biết con trai ông là Lương Đình H đem xe máy đi mua ma túy. Ông đã được cơ quan điều tra trả lại chiếc xe máy và đăng ký xe mang tên Trần Thị H nên không có yêu cầu khác.

Kết thúc thẩm vấn, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lương Đình H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Lương Đình H từ 8 năm đến 9 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS xử lý vật chứng theo quy định. Bị cáo phải nộp án phí HSST.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ mức án.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người có quyền lợi liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Lương Đình H không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 14 giờ 45 ngày 14/01/2019, tại tổ H, phường CH, thành phố TH, Lương Đình H có hành vi cất giữ trong người 2,90 gam Heoine với mục đích để bán kiếm lời thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo đã có hai tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này xác định là tái phạm nguy hiểm nên phải chịu tình tiết tăng nặng định khung tại điểm q khoản 2 Điều 251 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ, hành vi: Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã bất chấp pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về các loại tội phạm hình sự nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà ngày càng lao vào con đường phạm tội. Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào, vì tình tiết Tái phạm nguy hiểm đã là tình tiết định khung tăng nặng. Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.

Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một người nam thanh niên là K (không rõ lai lịch địa chỉ) nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS.

[5]. Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra thu giữ 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2 , xét thấy đây là vật chứng phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen kèm theo số thuê bao 0359985XXX, số IMEI gồm: 352808093708XXX và 352809093708XXX, bị cáo sử dụng vào việc gọi điện giao dịch mua bán ma túy nên cần tịch thu nộp NSNN.

Số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. 01 ví giả da màu nâu và 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Đình H là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại để sử dụng.

Đi với 01 chiếc xe mô tô BKS 20H 1- 56XX và 01 đăng ký xe mô tô mang tên Trần Thị H thuộc sở hữu của Lương Văn C, khi ông C cho bị cáo mượn xe không biết bị cáo sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Cường quản lý, sử dụng.

[6]. Bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Lương Đình H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt:

- Lương Đình H 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2019.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt bị cáo Lương Đình H 5.000.000đ (năm triệu đồng) nộp NSNN.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

- Tịch thu, tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen kèm theo số thuê bao 0359985XXX, số IMEI gồm: 352808093708XXX và 352809093708XXX.

- Tạm giữ của bị cáo số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo 01 ví giả da màu nâu và 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Đình H.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 352 ngày 10/6 /2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên và UNC số 38 ngày 20/5/2019).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 293/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:293/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về