Bản án 293/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 293/2019/HS-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 352/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Phạm Ngọc V; Sinh năm: 1993; tại Gia Lai; Thường trú: xã I Grăng, huyện la Grai, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Ngọc Q; và bà: Nguyễn Thị T; có vợ 01 con, sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày: 16/6/2019. (Có mặt).

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1987. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Phạm Ngọc V là người nghiện ma túy và bắt đầu sử dụng ma túy từ tháng 06/2018 cho đến ngày bị bắt. Vào lúc 14 giờ ngày 16/6/2019, V điều khiển xe mô tô biển số 81R1-XXX chở mẹ là bà Nguyễn Thị T và em gái Phạm Ngọc L đi từ Long An đến ngã tư Bình Phước, quận Thủ Đức để đón xe về Gia Lai. Khi đến ngã tư An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, V nói mẹ và em gái đứng chờ. V điều khiển xe vào bến xe An Sương gặp 1 người đàn ông chạy xe ôm (không rõ lai lịch) hỏi mua 400.000 đồng ma túy loại Heroin, rồi chở mẹ và em gái chạy về ngã tư Bình Phước. Khi đến trước cây xăng Hiệp Bình Phước số 910 quốc lộ 13, khu phố 2, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, V vào đi vệ sinh và sử dụng ma túy tại nhà vệ sinh của cây xăng, khi sử dụng xong V đi ra thì bị Công an phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Kết luận giám định số 1304/KLGĐ-H ngày 24/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2615g, loại Heroin.

Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0285g, loại Heroin

Tang vật thu giữ:

+ 01 gói nylon bên trong có chứa 05 đoạn ống hút hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất bột màu trắng;

+ 01 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng.

+ 01 xe mô tô biển số 81R1-XXX

[2] Bản Cáo trạng số 301/CT-VKSTĐ ngày 24/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Phạm Ngọc V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Phạm Ngọc V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Phạm Ngọc V không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Ngọc V phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0.2900g loại Heroin. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Phạm Ngọc V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Vì vậy, cần xử lý bị cáo bằng hình phạt nghiêm phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi số vụ 1304 có chữ ký của giám định viên Võ Anh Tuấn, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm lưu hành do đó cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển số 81R1-XXX, qua xác minh xe này do bà Nguyễn Thị P là chủ sở hữu, có số máy 5B95040XXX, số khung B950Y040XXX. Ngày 16/6/2019 bà p cho Phạm Ngọc V là cháu ruột mượn xe để chở mẹ và em gái ra bến xe đón xe về Gia Lai. V sử dụng xe đi mua ma túy bà P không biết, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã trả lại xe cho bà Nguyễn Thị P. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc V 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2019.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số vụ 1304 có chữ ký của giám định viên Võ Anh Tuấn, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2020/004 ngày 09/10/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Phạm Ngọc V chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 293/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:293/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về