Bản án 292/2020/HNGĐ-ST ngày 12/06/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 292/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 5 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22/5/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Cao Thị B – Sinh năm 1982

Bị đơn: Anh Đào Hồng H – Sinh năm 1982

Cùng ĐKHKTT: U, phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Cùng trú tại: F, Quan Nhân, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

(Tại phiên tòa chị B có mặt, chị B vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn là chị Cao Thị B trình bày:

Chị và bị đơn là anh Đào Hồng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ngày 03/11/2008, cả hai anh chị đều kết hôn lần đầu. Sau khi kết hôn anh chị sống cùng nhau tại nhà bố mẹ đẻ chị B số F Quan Nhân, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không hòa hợp nhau về tính cách, mâu thuẫn về kinh tế, vợ chồng thường xuyên chiến tranh lạnh, không giao tiếp và trao đổi với nhau. Anh chị sống cùng nhà nhưng không quan hệ vợ chồng khoảng 02 năm nay. Trước khi nộp đơn xin ly hôn, chị đã trao đổi với chị B và bố mẹ chồng về vấn đề mâu thuẫn, hai bên gia đình đã khuyên giải và tìm mọi biện pháp để hàn gắn quan hệ vợ chồng nhưng vợ chồng chị vẫn không cải thiện được tình trạng mâu thuẫn. Sau khi suy nghĩ kỹ, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đào Hồng H.

- Về con chung: Chị B xác nhận anh chị có 02 con chung là Đào Phương N, sinh ngày 10/7/2009 và Đào Gia H, sinh ngày 24/01/2011. Ly hôn, chị xin nuôi cả 02 con chung và yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con chung 4.000.000đ/tháng.

- Về tài sản chung, nhà đất ở chung, về nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết, ngoài ra chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề gì khác.

* Tại Bản tự khai và các biên bản hòa giải tại Tòa án, bị đơn là anh Đào Hồng H trình bày:

Anh và chị Cao Thị B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ngày 03/11/2008, cả hai đều kết hôn lần đầu. Sau khi kết hôn anh và chị B chung sống tại vợ chồng chung sống tại số nhà F Quan Nhân, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội là nhà bố mẹ đẻ chị B. Quá trình chung sống đến năm 2015 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh làm ăn bị sa sút về kinh tế, làm mất hết nhà cửa và tiền bạc dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi cọ và luôn trong tình trạng căng thẳng. Đến năm 2019 tình trạng vợ chồng trở nên xấu đi, vợ chồng tuy sống cùng nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, việc ai người đó làm, hai bên không tìm được tiếng nói chung. Bố mẹ hai bên đã nỗ lực hòa giải mâu thuẫn vợ chồng nhưng không có kết quả, bản thân anh cũng đã nhiều lần đưa ra các biện pháp để cải thiện mâu thuẫn vợ chồng nhưng đều không có kết quả. Mặc dù anh biết chị B không còn tính cảm vợ chồng với anh nhưng không muốn ly hôn vì sợ con cái bị ảnh hưởng, nếu chị B cương quyết xin ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quyết định của pháp luật.

- Về con chung: Chị B xác nhận anh và chị B có 02 con chung là Đào Phương N, sinh ngày 10/7/2009 và Đào Gia H, sinh ngày 24/01/2011. Trong trường hợp Tòa giải quyết cho ly hôn, anh đồng ý giao cả 02 con cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng, đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con 4.000.000đ/tháng của chị B.

- Về tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết, ngoài ra chị B không có yêu cầu gì khác.

* Tại phiên tòa.

Chị B vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị B vì chị B cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài trầm trọng từ nhiều năm, vợ chồng không thể hàn gắn được mâu thuẫn để đoàn tụ gia đình, tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị B cần phải ổn định cuộc sống để nuôi hai con chung nên đề nghị xin được ly hôn với chị B.

Ly hôn, chị B xin được nuôi cả hai con chung là cháu Đào Phương N, sinh ngày 10/7/2009 và Đào Gia H, sinh ngày 24/01/2011, yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con chung 4.000.000đ/tháng.

Về tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết, về các vấn đề khác chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn là anh Đào Hồng H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng chị B vẫn vắng mặt tại phiên tòa, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt chị B.

Về án phí: Chị Cao Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm;

chị B phải chịu án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Xét đơn khởi kiện của chị Cao Thị B xin ly hôn đối với anh Đào Hồng H là quan hệ tranh chấp về Hôn nhân gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Cao Thị B và anh Đào Hồng H cùng cư trú tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

[2] Về tố tụng: Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân có văn bản không tham gia phiên tòa theo căn cứ tại khoản 2, Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên HĐXX tiến hành xét xử vụ án không có đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn là anh Đào Hồng H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chị B có bản tự khai, tham gia đầy đủ các buổi hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị B tham gia phiên tòa ngày 22/5/2020, chị B vắng mặt lần thứ nhất không có lý do, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập cho chị B đến phiên tòa nhưng chị B vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị B theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung:

* Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị B và anh Đào Hồng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ngày 03/11/2008, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, lối sống, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài trầm trọng nhiều năm, bản thân hai vợ chồng và gia đình hai bên cũng đã có nhiều biện pháp đưa ra để cải thiện quan hệ vợ chồng tuy nhiên đều không có kết quả, vợ chồng đã ly thân nhau được hai năm. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ vợ chồng nhưng không thành. Nay chị B xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với chị B; Tại phiên tòa chị B vắng mặt không có lý do thể hiện chị B không có thiện chí hòa giải, giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Ngoài lời khai của hai bên, tại bản xác nhận tình trạng chung sống vợ chồng của tổ trưởng dân phố thể hiện vợ chồng anh chị bất hòa, không có tiếng nói chung hai bên đã hòa giải nhưng không thành công. Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã kéo dài trầm trọng, mục đích hôn nhân là cùng nhau xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do vậy chấp nhận yêu cầu của chị B xin được ly hôn với chị B là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

* Về con chung: Chị Cao Thị B và anh Đào Hồng H có hai con chung là Đào Phương N, sinh ngày 10/7/2009 và Đào Gia H, sinh ngày 24/01/2011. Các con chung đều có nguyện vọng sống cùng với chị B, chị B có ý kiến nếu phải ly hôn đồng ý giao cả hai con chung cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng. Để đảm bảo quyền lợi của các con nên giao cho chị Cao Thị B trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của chị B cấp dưỡng nuôi con chung cho chị B 4.000.000đ/tháng tính từ tháng 6/2020 cho đến khi cả hai con chung trưởng thành hoặc khi có sự thay đổi khác là phù hợp với quy định của pháp luật.

*Về tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung và các vấn đề khác: Chị B, chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết; Ngoài ra anh chị không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật; chị B phải chịu án phí của người có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 điều 28; Điều 35; khoản 2 Điều 21; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điểm a Khoản 5, điểm b, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 và tiểu mục 1.1 mục 1 điểm I phần A Danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Cao Thị B đối với anh Đào Hồng H. Chị Cao Thị B được ly hôn với anh Đào Hồng H.

2.Về con chung: Giao hai con chung là cháu Đào Phương N, sinh ngày 10/7/2009 và Đào Gia H, sinh ngày 24/01/2011 cho chị Cao Thị B trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Đào Hồng H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cho chị B 4.000.000đ/tháng kể từ tháng 6/2020 cho đến khi cả hai con chung đủ tuổi trưởng thành hoặc khi có sự thay đổi khác. Chị B được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nhà ở chung và nợ chung: Chị Cao Thị B và anh Đào Hồng H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

4. Về các vấn đề khác: Chị Cao Thị B và anh Đào Hồng H không yêu cầu nên không xét.

5. Về án phí: Chị Cao Thị B phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000đồng tiền tạm ứng án phí chị B đã nộp theo biên lai số AA/2016/0006881 ngày 25/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Chị B phải chịu 150.000đồng án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm, chị B có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 292/2020/HNGĐ-ST ngày 12/06/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:292/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về