Bản án 292/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 292/2019/HS-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 350/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 308/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019, đối với các bị cáo:

1/ Đặng Trung H; Sinh năm: 1997; tại thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: xã Phú Điền, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở: 13G9 đường Vĩnh Phú 1, khu phố Phú Hội, phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá (học vấn): 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Thanh Nhàn; và bà: Nguyễn Thị Tuyết Nga; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày: 06/4/2019. (Có mặt).

2/ Võ Minh L; Sinh năm: 1999; tại thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: không xác định; chỗ ở: phường Bình Nhâm, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: sơn nước; trình độ văn hoá (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ Minh H; và bà: Ngô Thị Đ; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày: 06/4/2019. (Có mặt).

3/ Phan Thanh V; Sinh năm: 1993; tại thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Thanh P; và bà: Ngô Thị Thùy T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 17/5/2012 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2011, chấp hành xong hình phạt ngày 22/8/2013; ngày 19/01/2015 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thành áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng tính từ ngày 19/12/2014; Bị bắt, tạm giam từ ngày: 06/4/2019. (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Hoàng Đ, sinh năm: 2000; trú tại: phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Có mặt)

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Hải Đ, sinh năm 1994. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 06/4/2019, Võ Minh L, cùng Đặng Trung H và Nguyễn Hoàng Đ nhậu chung với nhau. Sau đó cả ba rủ nhau sang phòng trọ số 2 của Phan Thanh V tại số XXX đường Ngô Chí Quốc, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức để cùng mua ma túy đá về sử dụng. Tại đây Võ Minh L, cùng Đặng Trung H mỗi người hùn nhau 100.000 đồng đưa cho V nhờ mua ma túy đá về sử dụng chung. V đồng ý và lấy xe mô tô biển số 54V3-XXX chở L đi mua ma túy, khi đến đường số 3, khu phố Đông Ba, phường Bình Hòa, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, L đưa cho V 200.000 đồng, V trực tiếp mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng của tên Dũng (không rõ lai lịch). Sau khi mua ma túy xong V đưa cho L giữ và V điều khiển xe về lại phòng trọ, để sử dụng ma túy thì bị công an phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức kiểm tra bắt quả tang.

Kết luận giám định số 868/KLGĐ-H ngày 12/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1834g, loại Methamphetamine.

Vật chứng vụ án:

+ 01 gói niêm phong ghi số vụ 868 có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, bên trong là mà túy còn sai sau giám định;

+ 01 điện thoại di động hiệu Mobistars màu vàng trắng số thuê bao 052xxxx353 (thu giữ của L)

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng số thuê bao 037xxxx271 (thu giữ của V)

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số thuê bao 096xxxx297 (thu giữ của H)

+ 01 xe mô tô hiệu Nuovo LX màu đen xám biển số 54V3 - xxx; số máy: D26395Exxx; số khung: CN5P11084030xxx;

[2] Bản Cáo trạng số 293/CT-VKSTD ngày 18/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố các bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo V từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm tù, bị cáo H, bị cáo L mỗi bị cáo từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù. Vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V không tranh luận hoặc bào chữa gì.

Các bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V nói lời sau cùng rất hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định các bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1834g loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận các bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, các bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện các bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước.

Xét về nhân thân từng bị cáo: bị cáo H và bị cáo L chưa có tiền án tiền sự, trong vụ án này hai bị cáo có vai trò là người hùn tiền để mua ma túy cùng nhau sử dụng, còn bị cáo V là người trực tiếp mua ma túy của đối tượng tên D (chưa rõ lai lịch), bản thân bị cáo V từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, từng bị kết án 02 năm tù về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử lý các bị cáo bằng hình phạt nghiêm phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sụ là quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Do hoàn cảnh của các bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ 01 gói niêm phong ghi số vụ 868 có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, bên trong là mà túy còn sai sau giám định, là vật cấm lưu hành do đó cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động hiệu Mobistars màu vàng trắng số thuê bao sim 2: 0799979813 và sim 1 số 052xxxx353 (thu giữ của L), và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng số thuê bao 037xxxx271 (thu giữ của V) sử dụng vào việc gọi vào số 0933454788 của đối tượng tên Dũng để mua ma túy, vì vậy tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số thuê bao 096xxxx297 (thu giữ của H) không liên quan đến vụ án, vì vậy trả lại cho các bị cáo.

+ 01 xe mô tô hiệu Nuovo LX màu đen xám biển số 54V3 - xxx; số máy: D26395Exxx; số khung: CN5P11084030xxx. Qua xác minh chiếc xe trên là của bà Bùi Thị Q. Bà Q đã bán chiếc xe trên cho một người thanh niên không rõ lai lịch với giá 6.300.000 đồng vào tháng 8/2018 nhưng không có làm thủ tục sang tên. Bị cáo V khai mua chiếc xe trên vào tháng 08/2018 của một thanh niên không rõ lai lịch với giá 4.000.000 đồng. Ngày 06/4/2019 V sử dụng xe trên làm phương tiện phạm tội vì vậy tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với tên D bán ma túy cho các bị cáo chưa xác minh được lai lịch, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Đặng Trung H, Võ Minh L, Phan Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thanh V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2019.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Trung H01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2019.

Xử phạt: Bị cáo Võ Minh L 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2019.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số vụ 868 có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, bên trong là mà túy còn sai sau giám định.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Mobistars màu vàng trắng số thuê bao: 052xxxx353; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng số thuê bao 037xxxx271 và 01 xe mô tô hiệu Nuovo LX màu đen xám biển số 54V3 - xxx; số máy: D26395Exxx; số khung: CN5P11084030xxx.

+ Trả lại cho bị cáo Đặng Trung H01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số thuê bao 0969252297.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/246 ngày 13/9/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo Phan Thanh V, Võ Minh L, Đặng Trung H mỗi bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 292/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:292/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về