Bản án 292/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 292/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 242/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Bá A, sinh năm 1985

Địa chỉ: thôn 1, xã Hoằng M, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Chị Lê Thị D, sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn 1, xã Hoằng M, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Ti phiên tòa nguyên đơn anh Lê Bá An có mặt, vắng mặt bị đơn chị Lê Thị Dung.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/8/2019, bản tự khai ngày 11/9/2019 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn anh Lê Bá A thể hiện:

i (A) và chị Lê Thị D tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã Hoằng M, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 10 tháng 01 năm 2014. Vợ chồng tôi sống với nhau đến tháng 7/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cô D chơi bời không chịu tu trí làm ăn nên vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chị D. Do tình cảm của tôi đối với chị D không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được nên tôi đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Về con: Tôi( A) và chị Lê Thị D có 01( Một) con chung Lê Minh Khang, sinh ngày 29/01/2015. Hiện nay cháu đang ở với tôi. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị Lê Thị D đến để giải quyết vụ án, nhưng chị vẫn không có mặt.

Theo lời trình bày của ông Lê Văn Khếnh (là bố đẻ của chị D) thể hiện: Con gái tôi đi làm ăn, thường xuyên về thăm gia đình và gọi điện về nhà, gần đây mới về nhà xong rồi lại đi, việc anh A xin ly hôn, D có biết và nói với tôi. Quan điểm của chị D là tình cảm vợ chồng không hàn gắn được nên cũng đồng ý ly hôn, nhưng do công việc bận nên chị không thể ở nhà để giải quyết được.

Về con chung: Chị Lê Thị D và anh Lê Bá A có 01( Một) con chung, Lê Minh Khang, sinh ngày 29/01/2015. Hiện nay cháu đang ở với anh A, anh A có nguyện vọng nuôi con thì chị D và gia đình cũng đồng ý và không có yêu cầu gì về cấp dưỡng.

Về tài sản: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo mở phiên họp, Quyết định đưa vụ án xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho chị D nhưng chị không có mặt. Tòa án đã tống đạt được trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông Lê Văn Khếnh ( bố đẻ) chị D, ông cam kết nhận văn bản của Tòa án và giao lại ngay các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị D.

Về án phí: Anh Lê Bá A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa nguyên đơn anh Lê Bá A không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Lê Bá A làm đơn đề nghị ly hôn đến Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng cho chị D, chị biết việc anh A xin ly hôn và chị đưa ý kiến là đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh A. Tại phiên tòa ngày 10/10/2019, do chị D vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị Lê Thị D là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Lê Bá A và chị Lê Thị D kết hôn với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân xã Hoằng M, huyện Hoằng Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải nổi, mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân không quan tâm gì đến nhau thể hiện tình cảm anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51,56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Bá A đối với chị Lê Thị D là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[3] Về con: Anh Lê Bá A và chị Lê Thị D có 01 con chung là cháu Lê Minh Khang, sinh ngày 29/01/2015. Hiện nay cháu đang ở với anh A. Nay ly hôn anh A có nguyện vọng tiếp tục nuôi cháu Khang.

Xét yêu cầu nuôi con HĐXX xét thấy: Cháu Lê Minh Khang, sinh ngày 29/01/2015 từ khi vợ chồng sống ly thân cháu ở với anh A, anh vẫn đảm bảo cho cháu ăn học bình thường. Chị D cũng đồng ý để cho cháu được ở với anh A. Do đó chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh Lê Bá A. Giao cháu Khang cho anh tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. chị D có quyền qua lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Anh Lê Bá A và chị Lê Thị D không yêu cầu tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản: Anh Lê Bá A và chị Lê Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn là anh Lê Bá A phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51,56,57,58,81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Lê Bá A được ly hôn chị Lê Thị D.

Về con: Công nhận cháu Lê Minh Khang, sinh ngày 29/01/2015 là con chung của anh Lê Bá A và chị Lê Thị D.

Giao cháu Lê Minh Khang cho anh A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị D có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Anh Lê Bá A và chị Lê Thị D không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Lê Bá A phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0005766 ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Anh A đã thi hành xong.

Nguyên đơn anh Lê Bá A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn chị Lê Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 292/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:292/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về