Bản án 29/2021/HS-ST ngày 04/03/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Như Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu C, sinh ngày 18/02/1982 tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu P và bà Nguyễn Thị H; Có vợ là Lê Thị H và 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 11/9/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Đánh bạc”, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 22/12/2020 đến nay. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hữu H - SN 1985.

Trú tại: Thôn H Tiến, xã Xuân Bình, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 16/12/2020, Đỗ Xuân X, sinh năm 1977 ở thôn Xuân Phú, xã Xuân Bình, huyện Như Xuân đang ở nhà thì có Nguyễn Hữu H, sinh năm 1985 và Nguyễn Hữu C, sinh năm 1982 cùng ở thôn Hùng Tiến, xã Xuân Bình, huyện Như Xuân trên đường đi thanh toán tiền gỗ keo về có vào nhà X ngồi chơi uống nước. Một lúc sau, có Lê Đức P, sinh năm 1978 ở thôn Xuân Phú, xã Xuân Bình, huyện Như Xuân đi làm về vào ngồi chơi. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, bốn đối tượng nêu trên rủ nhau đánh bạc ăn tiền bằng hình thức đánh phỏm; Tất cả đồng ý rồi lấy chiếu và bộ bài tú lơ khơ 52 cây cũ trong nhà X ra chơi. Hình thức chơi như sau: Người chơi đánh đầu tiên sẽ được chia 10 lá bài, những người còn lại được chia 09 lá, tất cả các lá bài dư được đặt ở giữa bàn, người chơi đánh đầu tiên sẽ đánh ra 01 lá bài, người tiếp theo sẽ ăn lá bài đó nếu hợp với các lá bài đang có tạo thành “phỏm”, nếu người tiếp theo không ăn lá bài đó thì sẽ phải bốc 01 lá bài trong các lá bài dư được đặt ở giữa bàn, sau khi ăn bài/bốc bài, người chơi phải đánh ra 01 lá bài, cứ tiếp tục như vậy cho đến khi hết vòng, theo luật chơi “phỏm” của các đối tượng, ván bài sẽ kết thúc khi trong bàn có một người chơi “ù”. Nếu trong bàn không có ai “ù” thì sau 04 lượt ván bài sẽ kết thúc. Khi đánh lượt cuối, người chơi phải hạ tất cả các “phỏm” mình đang có, sau đó mới đánh lá bài cuối cùng. Các lá bài còn lại sẽ được giữ lại để tính điểm khi kết thúc ván bài. Nếu không có ai “ù” thì các lá bài rác còn lại sẽ được cộng điểm để tính thắng - thua. Ai ít điểm nhất trong bàn sẽ là người thắng cuộc (số điểm của mỗi lá bài là số trên lá bài đó, riêng các lá A, J, Q, K sẽ được tính điểm lần lượt là 1, 11, 12, 13). Trong các trường hợp điểm số bằng nhau, người hạ bài sau sẽ bị xử thua. Người chơi bị “móm” (không hạ được “phỏm” nào) sẽ bị tính là về bét. Tỷ lệ thắng thua như sau: Về nhì mất 10.000đ, về ba mất 20.000đ, về cuối cùng mất 30.000đ, người không có “phỏm” (“móm”) mất 40.000đ cho người về nhất; người “ù” ăn của mỗi người 50.000đ. Đến khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị tổ công tác Công an xã Xuân Bình, huyện Như Xuân phát hiện, lập biên bản, tang vật thu giữ tại chiếu bạc gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 cây và 2.910.000đ; thu giữ trong người Nguyễn Hữu C 500.000đ; thu giữ trong người Nguyễn Hữu H 1.000.000đ.

Quá trình điều tra, Nguyễn Hữu C khai báo: Khi đến nhà Đỗ Xuân X thì C có mang theo 1.000.000đ, nhưng chỉ lấy ra 500.000đ để đánh bạc, số tiền còn lại C để dành đổ xăng xe ô tô (do C làm nghề lái xe), chứ không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, C đang có 1.060.000đ dưới chiếu.

Nguyễn Hữu H khai báo: Khi đến nhà Đỗ Xuân X thì H có mang theo 1.400.000đ, nhưng H chỉ lấy ra 400.000đ để tham gia đánh bạc, số tiền còn lại là do người khác gửi cho vợ H nên không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H đang có 650.000đ dưới chiếu.

Đỗ Xuân X khai báo: X có 1.000.000đ và dùng cả số tiền này để tham gia đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, X đang có 1.160.000đ dưới chiếu.

Lê Đức P khai báo: Khi đến nhà Đỗ Xuân X thì P có mang theo 1.010.000đ và dùng cả số tiền này để tham gia đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, P đang có 40.000đ dưới chiếu.

Theo các đối tượng Nguyễn Hữu C, Nguyễn Hữu H, Đỗ Xuân X và Lê Đức P khai báo thì tổng số tiền các đối tượng mang theo là 4.410.000đ, nhưng chỉ dùng 2.910.000đ để đánh bạc. Căn cứ vào biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra xác định được tổng số tiền thực tế các đối tượng dùng vào mục đích đánh bạc là 2.910.000đ, số tiền còn lại các đối tượng không dùng vào mục đích đánh bạc.

Quá trình điều tra xác định, vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà của Đỗ Xuân X, các đối tượng không hứa hẹn với nhau từ trước, trong lúc ngồi uống nước nói chuyện đã cùng rủ nhau đánh bạc ăn tiền. Cả bốn đối tượng cùng tham gia đánh bạc cho đến khi bị lực lượng Công an bắt quả tang. Khi các đối tượng đánh bạc ăn tiền với nhau không ai đứng ra tổ chức việc đánh bạc, không ai bị thu “tiền chiếu”, “tiền hồ” và cũng không có ai canh gác cho các đối tượng đánh bạc. Do đó, hành vi của các đối tượng không có yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” hay tội “Gá bạc”.

Các đối tượng Nguyễn Hữu H, Lê Đức P và Đỗ Xuân X thực hiện hành vi đánh bạc với số tiền dùng vào mục đích đánh bạc dưới 5.000.000đ nên không cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 của Bộ luật hình sự, Công an huyện Như Xuân đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 03 đối tượng trên về hành vi đánh bạc theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 bộ bài tú lơ khơ (loại bài 52 cây); được chuyển từ kho vật chứng của Cơ quan Thi hành án hình sự - Công an huyện Như Xuân sang kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân chờ xử lý.

- Tổng số tiền Việt Nam là 4.410.000đ đã được chuyển từ tài khoản tạm gửi của Cơ quan Thi hành án hình sự - Công an huyện Như Xuân sang tài khoản tạm gửi của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân tại Kho bạc nhà nước huyện Như Xuân chờ xử lý.

Bản cáo trạng số: 11/CT-VKSNX ngày 08/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân truy tố bị cáo Nguyễn Hữu C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hữu H thừa nhận các tình tiết nội dung vụ án như Cáo trạng đã nêu và lời khai của bị cáo C tại phiên tòa là đúng; đồng thời đề nghị HĐXX trả lại số tiền 1.000.000đ đã bị thu giữ trên người, do H không dùng vào mục đích đánh bạc.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu C đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 5 Điều 65; khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu C với mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Tổng hợp với 15 tháng tù tại bản án số: 24/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa; Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng: Bị cáo Nguyễn Hữu C xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Như Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại nhà của Đỗ Xuân X ở thôn Xuân Phú, xã Xuân Bình, huyện Như Xuân, các đối tượng gồm Nguyễn Hữu H, Nguyễn Hữu C, Đỗ Xuân X, Lê Đức P đang cùng nhau đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh “phỏm” được thua bằng tiền thì bị bắt quả tang. Tổng số tiền các đối tượng trên dùng để đánh bạc là 2.910.000đ. Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hữu C tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Nguyễn Hữu C đã bị kết án về tội “Đánh bạc”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục đánh bạc nên hành vi của C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của BLHS (mặc dù số tiền C dùng vào mục đích đánh bạc dưới 5.000.000đ).

[4] Về tính chất, mức độ hành vi và hậu quả: Hành vi phạm tội đánh bạc của Nguyễn Hữu C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội. Việc bị cáo và một số đối tượng khác (đã bị xử lý vi phạm hành chính) sát phạt, tước đoạt tiền bạc, tài sản của nhau để thu lợi bất chính có thể dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng, làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản... Việc quy định tội phạm này nhằm đấu tranh ngăn chặn tệ nạn cờ bạc trong xã hội, giữ gìn trật tự công cộng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung; đồng thời việc cách ly xã hội đối với bị cáo một thời gian là cần thiết.

[5] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Hữu C là đối tượng có nhân thân xấu, có 01 tiền án về hành vi “Đánh bạc”; Nhưng sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội; Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân là lao động chính trong gia đình, đang phải nuôi hai con nhỏ. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ TNHS của Nguyễn Hữu C như đã nêu trên, khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.

[7] Do bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội mới trong thời gian thử thách nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 15 tháng tù tại bản án số 24/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Như Xuân và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS.

[8] Xét bị cáo Nguyễn Hữu C không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn; Hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất ít nghiêm trọng nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của BLHS.

[9] Về vật chứng:

- Đối với 01 bộ bài tú lơ khơ (52 cây) là công cụ phạm tội của bị cáo cần tịch thu, tiêu hủy; Đối với số tiền 2.910.000đ là tiền dùng vào việc phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 500.000đ thuộc sở hữu của Nguyễn Hữu C và số tiền 1.000.000đ thuộc sở hữu của Nguyễn Hữu H, C và H không dùng vào mục đích đánh bạc, không phải là vật chứng của vụ án, vì vậy trả lại cho C và H.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 5 Điều 65; khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 46; các điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu C 07 (bảy) tháng tù. Tổng hợp với 15 (mười lăm) tháng tù tại bản án số: 24/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 22 (hai hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ (52 cây); Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.910.000đ; Trả lại cho Nguyễn Hữu C số tiền 500.000đ, trả lại cho Nguyễn Hữu H số tiền 1.000.000đ. Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 14/2021/TSVC ngày 04/3/2021 giữa Công an huyện Như Xuân và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân.

Án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

637
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HS-ST ngày 04/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:29/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về