Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 05 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 79/2021/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Diệu H, sinh năm 1990 Địa chỉ: số 658 ấp Nh , xã N Tr, thành phố T, tỉnh Long An

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Anh T, sinh năm 1983 Địa chỉ: số 658 ấp Nh , xã N Tr, thành phố T, tỉnh Long An (Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/3/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Diệu H trình bày trình bày tóm tắt như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và Ông Nguyễn Anh T kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được. Nay bà xác định không còn tình cảm với Ông Nguyễn Anh T. Nay bà yêu cầu được ly hôn với Ông Nguyễn Anh T.

Về con chung: Bà và Ông Nguyễn Anh T có 02 con chung Nguyễn Anh T1 sinh ngày 19/4/2010 và Nguyễn Tuấn L sinh ngày 03/6/2013. Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Ông Nguyễn Anh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và Bà Nguyễn Thị Diệu H đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc không phát sinh mâu thuẫn. Nay bà H yêu cầu ly hôn, ông không đồng ý, lý do là ông phụ nuôi con ăn học.

Về con chung: Ông bà H có 02 con chung Nguyễn Anh T1 sinh ngày 19/4/2010 và Nguyễn Tuấn L sinh ngày 03/6/2013. Trường hợp ly hôn thì ông đồng ý giao 02 con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân An nhận định quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Hội đồng xét xử đều tuân theo qui định pháp luật tố tụng. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo qui định pháp luật. Về nội dung: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xét mâu thuẫn giữa bà H và ông T là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chung là 02 con chung Nguyễn Anh T1 sinh ngày 19/4/2010 và Nguyễn Tuấn L sinh ngày 03/6/2013 cho bà H nuôi dưỡng vì ông Tuần đống ý để bà H trực tiếp nuôi 2 con chung, ông Tuân không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà H hiện tại bà H.

Về tài sản chung và nợ chung, bà H và ông T không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng các bên không thỏa thuận được bới nhau về việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa ra giải quyết theo đúng qui định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Diệu H và Ông Nguyễn Anh T chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quê Mỹ Thạnh, huyện tân Trụ, tỉnh Long An vào năm 2010, nên quan hệ hôn nhân của bà H ông T chỉ được pháp luật thừa nhận là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

[2.2] Xét yêu cầu ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bà H và ông T đã được Tòa án hòa giải đoàn tụ để hàn gắn hạnh phúc gia đình, ông T không đồng ý ly hôn với bà H, nhưng cũng không đưa ra được giải pháp thuyết phục để bà H đồng ý đoàn tụ hàn gắn hạnh phúc gia đình. Bà H xác định không còn tình cảm với ông T và cương quyết ly hôn. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân của hai bên đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông T.

[3]. Về quyền nuôi con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà H có nguyện vọng được nuôi con chung là Nguyễn Anh T1 sinh ngày 19/4/2010 và Nguyễn Tuấn L sinh ngày 03/6/2013, đây là nguyện vọng hoàn toan chính đáng của bà H và ông T đồng ý để bà H nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy việc giao con chung cho người trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc phải đảm bảo các điều kiện tốt nhất để con chung phát triển. Hiện tại hai con chung đang ở với bà H. Do đó, trên cơ sở cân nhắc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của các bên và để đảm bảo cho sự ổn định, phát triển bình thường của con chung. Căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cháu T1 và cháu L cho bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: căn cứ vào bảng lương do bà H cung cấp thì hiện tại bà đang làm công nhân thu nhập ổn định, lương căn bản hơn 7.000.000 đồng một tháng đủ điều kiện để nuôi con chung nên không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về chia tài sản chung, nợ chung: Bà H và ông T xác định tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận, không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trường hợp đương sự có tranh chấp về chia tài sản chung, nợ chung và cấp dưỡng nuôi con thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[6]. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ tại Điều 6, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Diệu H phải nộp 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13; Điều 51, Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13; Điều 6, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị Diệu H xin ly hôn với Ông Nguyễn Anh T.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Diệu H được ly hôn với Ông Nguyễn Anh T.

2.1. Về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Bà Nguyễn Thị Diệu H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung Nguyễn Anh T1 sinh ngày 19/4/2010 và Nguyễn Tuấn L sinh ngày 03/6/2013.

2.2. Về cấp đưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không có yêu cầu.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bên không trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con, cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con của bên không trực tiếp nuôi con.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bà H, ông T, người thân thích của cháu Nguyên, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định của pháp luật.

3. Về chia tài sản chung, nợ chung: bà H và ông T xác định tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Diệu H phải chịu 300.000 đồng. Chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu số 0005311 ngày 13/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An sang thi hành án phí. Ông T không phải chịu án phí.

4. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về