Bản án 29/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên K’V (tên gọi khác K’T) sinh năm 1991; tại Lâm Đồng; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Trú tại: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: K’Ho; tôn giáo: Đạo Tin Lành; trình độ văn hoá: 7/12; nghề nghiệp: Không ổn định; con ông Lê Chí T (đã chết) và bà K’N, sinh năm: 1971; Gia đình bị cáo có 06 chị em, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2004. Bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; Hiện nay gia đình bị cáo đang sinh sống tại tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Vợ: Rơ Năng H, sinh năm: 1995. Trú tại: Xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/02/2020, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Anh Trương Văn Đ, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

+ Anh Vũ Huy H, sinh năm: 2004.

Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

+ Anh Phạm Trung D, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Thôn 4, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

+ Anh K’He, sinh năm: 1994.

Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào đầu tháng 6/2019, K’V (tên thường gọi là K’T), trú tại: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng có đến xưởng mộc của anh Trương Văn Đ, tại tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình nói chuyện với anh Đ thì K’V biết xưởng mộc của anh Đ thường bị mất trộm tài sản nên K’V đề nghị đứng trông coi xưởng mộc cho anh Đ với số tiền 3.000.000đồng mỗi tháng. Anh Đ không đồng ý và nói sẽ liên hệ với K’V sau. Đến khoảng 14 giờ ngày 10/7/2019, K’V nói với K’He, trú tại tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng là có công việc nên nhờ K’He chở xuống xưởng mộc của anh Trương Văn Đ. Khi đến nơi K’V đi vào trong xưởng còn K’He dựng xe đứng đợi ngoài sân. K’V nói chuyện với anh Đ và biết từ tháng 6 đến nay thì xưởng mộc không bị mất mát tài sản hay xảy ra vấn đề gì, K’V liền nói với anh Đ “không mất mát gì thì cho anh mấy đồng uống cà phê”, biết K’V tự nhận công và đòi tiền bảo kê nên anh Đ nói dối “em đưa tiền cho anh Đồng rồi”. K’V biết anh Đ nói dối nên dọa nạt và dùng tay đánh vào mặt của anh Đ hai cái. Anh Đ bỏ đi vào gian phòng nghỉ ngay sau xưởng mộc, K’V lấy một cây đục loại đục dũi, mũi sắc, dài 20cm tại hộp dựng dụng cụ của xưởng mộc rồi cầm cây đục đi ngay sau lưng Đức. Khi đi đến bàn uống nước trong gian phòng nghỉ thì K’V tiếp tục chửi bới, giơ cây đục lên đe dọa anh Đ và tiếp tục bắt anh Đ gọi người có tên là Đồng đến nói chuyện với K’V. Sau khi dọa nạt khoảng 5 phút thì K’V dùng cây đục cắm xuống mặt bàn gỗ trước mặt anh Đ rồi đi đến khu vực gần cửa xưởng. Tại đây K’V nhìn thấy 01 chiếc máy mài góc màu đỏ-đen, nhãn hiệu KEN9917B, K’V lấy chiếc máy mài quay lại đặt trước mặt anh Đ và nói “giờ tao lấy cái máy mài này thì không phải ăn trộm đúng không? Nếu mày nói tao ăn trộm cái này thì có camera ghi lại cho mày chụp hình làm bằng chứng”, do sợ hãi nên anh Đ không dám nói hay phản kháng lại. K’V cầm chiếc máy lên nói “Giờ máy này tao mượn” rồi quay ra cửa, trên đường đi thì K’V giơ máy mài lên trước camera an ninh và nói “Camera quay lại tao mượn cái này nhá” rồi K’V đi ra xe nói K’He chở mình cùng chiếc máy chiếm đoạt của anh Đ ra về. Khi thấy K’V cầm chiếc máy mài ra ngoài để về thì K’He có hỏi “mày lấy máy của người ta làm gì” thì K’V trả lời “chuyện của tao”. Sau khi về đến nhà thì K’V cất chiếc máy mài vừa chiếm đoạt của anh Đ trong phòng khách.

Tang vật thu giữ: 01 cây đục loại đục dũi, mũi sắc, dài 20cm; 01 chiếc máy mài góc nhãn hiệu KEN9917B. Ngày 06/7/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lâm Hà có bản kết luận số 103/HĐĐG, kết luận 01 chiếc máy mài góc màu đỏ-đen hiệu KEN9917B có giá trị 576.000đồng.

Xử lý vật chứng: Ngày 27/3/2020 cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà ra quyết định xử lý vật chứng, bằng hình thức trao trả cây đục loại đục dũi, mũi sắc, dài 20cm; 01 chiếc máy mài góc màu đỏ-đen nhãn hiệu KEN9917B cho anh Trương Văn Đ.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Trương Văn Đ đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra bị cáo K’V đã thành khẩn khai báo, người bị hại có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt nên được áp dụng các tình thiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với K’He khi chở K’V đến xưởng mộc của anh Trương Văn Đ do không biết mục đích phạm tội của K’V nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản với vai trò đồng phạm. Đối với bà K’Nh do không biết chiếc máy mài trên do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có.

Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS-LH ngày 28/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử bị cáo K’V (K’T) về tội: “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại về nội dung bản cáo trạng, khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo K’V (K’T) về tội: “Cưỡng đoạt tài sản”,đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo K’V (K’T) từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/02/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Trương Văn Đ đã nhận lại tài sản không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo K’V khai nhận: Ngày 10/7/2019 bị cáo K’V đến xưởng mộc của anh Trương Văn Đ tại tồ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L thì biết thời gian này xưởng mộc của anh Đ không bị mất tài sản, bị cáo yêu cầu anh Đ đưa tiền (tiền bảo kê), anh Đ không đưa tiền theo yêu cầu của bị cáo nên bị cáo đã chửi bới rồi dùng tay đánh vào mặt anh Đ, sau khi bị đánh anh Đ bỏ đi vào phòng, bị cáo lấy cây đục loại đục dũi, mũi sắc đi theo uy hiếp anh Đ, yêu cầu đưa tiền nhưng anh Đ không đưa tiền cho bị cáo, trước khi ra xe đi về bị cáo chiếm đoạt 01 máy mài góc của anh Đ có giá trị là 576.000đồng. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến tình hình trật tự tại địa phương.

[3] Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, bản cáo trạng truy tố, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác được phản ánh trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo K’V phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng viện kiểm sát truy tố là có căn cứ đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo phải nhận thức được hành vi cưỡng đoạt tài sản là trái với qui định của pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cho bản thân nên bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo gây nên sự hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải có hình phạt bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo giáo dục bị cáo biết sống tuân thủ pháp luật, trở thành công dân lương thiện, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét đến nhân thân bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, trong quá trình điều tra người bị hại là anh Đ có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay anh Đ vắng mặt, nhưng trong quá trình điều tra, truy tố anh Trương Văn Đ đã nhận lại tài sản và có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với anh K’He là người chở bị cáo K’V đến xưởng mộc của anh Trương Văn Đ, do không biết mục đích phạm tội của bị cáo nên K’He không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản với vai trò đồng phạm.

Đối với bà K’Nh do không biết chiếc máy mài góc trên do bị cáo chiếm đoạt của anh Đ, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có.

[7] Xử lý vật chứng: Vật chứng gồm cây đục loại đục dũi, mũi sắc, dài 20cm; 01 chiếc máy mài góc màu đỏ-đen nhãn hiệu KEN9917B. Ngày 27/3/2020 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Hà ra quyết định xử lý vật chứng, bằng hình thức trao trả cây đục loại đục dũi, mũi sắc, dài 20cm; 01 chiếc máy mài góc màu đỏ-đen nhãn hiệu KEN9917B cho anh Trương Văn Đ. Anh Trương Văn Đ không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo K’V (K’T) phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo K’V (tên gọi khác K’T) 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/02/2020.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo K’V phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/5/2020). Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niên yết công khai, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về