Bản án 29/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

C Vông Sa (Tên gọi khác: Quàng Văn C) sinh ngày 11/8/1992, tại tỉnh T, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Nơi cư trú: Bản X, cụm Y, huyện Z, tỉnh T, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: 8/12 phổ thông Lào; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Lào; con ông T Vông Sa (Sinh năm 1968) và con bà Lò Thị T (Sinh năm 1968); bị cáo chưa có vợ. (Từ năm 2017 đến năm 2019, C Vông Sa chung sống như vợ chồng với chị Vì Thị P và có 01 con chung); tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính tại Việt Nam; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/12/2019 đến ngày 27/12/2020 tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo C Vông Sa (tên gọi khác: Quàng Văn C): Ông Nguyễn Quang K - Luật sư Văn phòng Luật sư A1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa).

- Người phiên dịch tiếng Lào cho bị cáo: Ông Trần Quang Đ - sinh năm 1981. Địa chỉ: Tổ dân phố 23, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào đầu năm 2019, C Vông Sa đi từ bản X, cụm Y, huyện Z, tỉnh T, nước CHDCND Lào sang bản P, xã R, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thăm mẹ đẻ là bà Lò Thị T. Trong thời gian ở Việt Nam, C Vông Sa đã quen biết Vì Thị P ở bản L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Điện Biên rồi chung sống với nhau (chưa đăng ký kết hôn) và có 01 người con. Đến sáng ngày 22/12/2019, C Vông Sa mượn chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA-Wave, biển kiểm soát 27B1-278.47 của Vì Thị P để sang Lào thăm bố đẻ, đến chiều ngày 23/12/2019 C Vông Sa quay lại Việt Nam, trên đường đi C Vông Sa mua được 05 túi Methamphetamine có khối lượng 89,74 gam với giá 05 triệu đồng tiền Việt Nam của 02 người đàn ông ở đầu bản X, cụm Y, huyện Z, tỉnh T, mục đích là để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, C Vông Sa cất giấu vào bầu lọc gió xe máy rồi đi về Việt Nam. Khoảng 17 giờ cùng ngày, C Vông Sa đến khu vực bản M, xã N, huyện C, tỉnh Điện Biên thì bị Bộ đội Biên phòng bắt giữ.

Tại Bản Kết luận giám định số 47/GĐ-PC09 ngày 03/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- 05 (năm) mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn C gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

- Khối lượng 05 (năm) túi nilon đựng các viên nén màu hồng có ký hiệu WY thu giữ của Quàng Văn C là 89,74 gam.

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-P1 ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố ra trước Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên để xét xử bị cáo C Vông Sa về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm b Khoản 3 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo C Vông Sa mức án từ 18 năm đến 19 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo C Vông Sa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo C Vông Sa không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện sinh sống của bị cáo C Vông Sa. Bị cáo do hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai của bị cáo C Vông Sa trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Đầu năm 2019, C Vông Sa đi từ bản X, cụm Y, huyện Z, tỉnh T, nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào sang thăm mẹ đẻ là bà Lò Thị Thanh tại bản L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Trong thời gian ở Việt Nam, C Vông Sa đã quen biết Vì Thị Pở bản L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Điện Biên rồi chung sống với nhau (chưa đăng ký kết hôn) và có 01 người con. Đến sáng ngày 22/12/2019, C Vông Sa mượn chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA-Wave, biển kiểm soát 27B1-278.47 của Vì Thị P để sang Lào thăm bố đẻ, đến chiều ngày 23/12/2019 C Vông Sa quay lại Việt Nam, trên đường đi C Vông Sa mua được 05 túi Methamphetamine có khối lượng 89,74 gam với giá 05 triệu đồng tiền Việt Nam của 02 người đàn ông ở đầu bản X, cụm Y, huyện Z, tỉnh T, mục đích là để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, C Vông Sa cất giấu vào bầu lọc gió xe máy rồi đi về Việt Nam. Khoảng 17 giờ cùng ngày, C Vông Sa đi đến khu vực bản M, xã N, huyện C, tỉnh Điện Biên thì bị Bộ đội Biên phòng bắt giữ.

Hi đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo C Vông Sa đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự, kết luận của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo C Vông Sa là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý và sử dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý mà bị cáo C Vông Sa đã thực hiện là đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo C Vông Sa phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là do hám lời và để phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo C Vông Sa đã có hành vi cất giấu 89,74 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời, đã cấu thành tình tiết định khung được quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân tỉnh Điện Biên truy tố đối với bị cáo C Vông Sa về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan sai. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử khi quyết định.

Đi với đề nghị của người bào chữa về việc xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt và xin miễn hình phạt bổ sung; miễn án phí cho bị cáo; bởi sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo C Vông Sa của người bào chữa là có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên về mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo là không có căn cứ chấp nhận, bởi vì khối lượng ma túy mà bị cáo tham gia mua bán là rất lớn (89,74 gam methamphetamine).

[3] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm nương, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo C Vông Sa sinh sống tại Bản X, cụm Y, huyện Z, tỉnh T, nước CHDCND Lào. Do hám lợi, bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị bắt giữ từ ngày 23/12/2019 cho đến nay. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6] Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với 87,49 gam Methamphetamine thu giữ của C Vông Sa là vật chứng của vụ án còn lại sau khi giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo C Vông Sa phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về các vấn đề khác: C Vông Sa khai mua số ma túy trên của 02 người đàn ông ở bên Lào, do C Vông Sa không biết tên tuổi và địa chỉ của 02 người này nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Tuyên bố: Bị cáo C Vông Sa (tên gọi khác: Quàng Văn C) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo C Vông Sa (tên gọi khác: Quàng Văn C) 18 (Mười tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 87,49 gam Methamphetamine là vật chứng của vụ án còn lại sau khi giám định.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 20/4/2020).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo C Vông Sa (tên gọi khác: Quàng Văn C) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng tiền Việt Nam) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/5/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về