TÒA ÁN ND HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 07 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020, đối với:
* Bị cáo. Bùi Sỹ T, sinh ngày xxx.
Nơi cư trú: Thôn L, xã T2, huyện T1, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Bùi Sỹ K, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976;
Bị cáo chưa có vợ con.
Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2020. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam công an tỉnh Thái Bình.
Bị cáo được dẫn giải có mặt.
* Người bị hại:
- Anh Phạm Văn T3, sinh năm 1981
Địa chỉ: X, phường Y, quận K, thành phố Hải Phòng.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Lê Xuân C, sinh năm 1965
Địa chỉ: Thôn L, xã T2, huyện T1, tỉnh Thái Bình.
* Người làm chứng:
- Anh Nguyễn Cao T4, sinh năm 1975
Địa chỉ: Thôn L, xã T2, huyện T1, tỉnh Thái Bình.
- Anh Huỳnh Văn H1, sinh năm 1973
Địa chỉ: Xóm 5, xã L1, huyện V, tỉnh Nam Định.
Ông C, anh T4 có mặt; Anh T3, anh H1 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 09/02/2019, Bùi Sỹ T khi đang đi bộ ở khu vực gần nhà, T quan sát thấy xe lu của anh Phạm Văn T3 đỗ ở lề đường đê thuộc địa phận thôn Tam Tri, xã T2 không có người trông coi. Thấy trên xe lu có 02 bình ắc quy, T trèo lên xe lấy chiếc cờ lê để ở thùng xe bẩy dây nối của xe lu với 02 bình ắc quy nhãn hiệu YUASA NI 50 làm dây nối tuột khỏi bình ắc quy. T để bình ắc quy xuống đất, sau đó đi về nhà lấy xe đạp của gia đình ra chở 02 bình ắc quy đến nhà ông Lê Xuân C, bán cho ông c với giá 950.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi bị phát hiện, ngày 26/3/2019 T đã bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 18/01/2020 biết bản thân bị truy nã, T đã đến Công an huyện T1 đầu thú.
Tại bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự của UBND huyện TI kết luận: “ 02 bình ắc quy nhãn hiệu YUASA đã qua sử dụng trị giá 2.500.000 đồng”.
Quá trình điều tra, Bùi Sỹ T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 01/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Bùi Sỹ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Đã bồi thường xong nên không đặt ra giải quyết.
Về vật chứng: Tài sản trộm cắp đã trả lại cho người bị hại nên không đặt ra giải quyết.
Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng và không tranh luận.
Ông C không có ý kiến gì với bản luận tội và không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đứng theo quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của người bị hại; Lời khai của người liên quan, người làm chứng; Biên bản giao người và tang vật; Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường; Bản kết luận định giá tài sản số 16/KLGĐ ngày 15/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự; Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[3] Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo nhận thức được việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.
[4] Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo sau khi phạm tội đến Công an huyện T1 đầu thú nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Hội đồng xét xử thấy tuy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy. Ngoài hành vi trộm cắp bị đưa ra xét xử còn có hai lần trộm cắp tài sản với giá trị nhỏ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân và tâm lý lo lắng cho các chủ tài sản trong việc trông coi quản lý tài sản của mình. Do vậy, bị cáo phải chịu mức án tương xứng với hành vi phạm tội của mình và cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội đồng thời đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[7] Do hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Quá trình điều tra T còn khai nhận ngày 19/2/2019, T trộm cắp 01 máy bơm nước và 01 điện thoại di động của ông Đỗ Văn N trị giá 300.000 đồng. Cùng ngày bị cáo và Phạm Ngọc T5 trộm cắp của bà Phùng Thị V 40 kg tỏi khô trị giá 500.000 đồng. Xét thấy, giá trị 02 lần trộm cắp dưới 2 triệu đồng, bị cáo và T5 đều chưa có tiền án, tiền sự. Cơ quan điều tra công an huyện T1 đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo và T5 nên không đặt ra giải quyết.
[9] Đối với ông Lê Xuân c là người mua 02 bình ắc quy do Bùi Sỹ T trộm cắp nhưng ông C không biết đó là tài sản trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với ông c là đúng quy định của pháp luật.
[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình đã bồi thường xong, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm nên không đặt ra giải quyết.
[11] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý xong nên không đặt ra giải quyết.
[12] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Bùi Sỹ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Bùi Sỹ T 09 (Chín) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong, không đặt ra giải quyết.
3. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong, không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Bùi Sỹ T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, ông C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 07/5/2020. Anh T3 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 29/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 29/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về