Bản án 29/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH 

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 04/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2020 tại Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2020/TLST- HS ngày 24 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 đối với:

* Bị cáo: Lê Văn H- Sinh năm 1954 tại tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Đội 6, Đồng Liêu, xã Nghĩa Lạc, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; giới tính: Nam; con ông Lê Văn Kích, sinh năm 1917, đã chết năm 1996 và bà Phạm Thị Ve, sinh năm 1918, đã chết năm 1998; có vợ là Phạm Thị Liễu, sinh năm 1960, lao động tự do tại Đội 6, Đồng Liêu, xã Nghĩa Lạc, huyện N, tỉnh Nam Định; có 4 con: Con lớn nhất sinh năm 1983, con nhỏ nhất sinh năm 1990. Tiền sự: Không.

Tiền án:

+ Ngày 11/8/1995, bị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Hà xử phạt 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

+ Ngày 20/6/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo Lê Văn Hbị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 11/02/2020 đến ngày 14/02/2020 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Ngọc – Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Sở tư pháp tỉnh Nam Định; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Đặng Văn Tướng, sinh năm 1979; địa chỉ: Đội 1, Đồng Lạc, xã Nghĩa Lạc,, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

2. Anh Vũ Văn Thong, sinh năm 1969; địa chỉ: Đội 6, Đồng Liêu, xã Nghĩa Lạc, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 11/02/2020, tại nhà Lê Văn Hồng, tổ công tác Công an huyện N phát hiện bắt quả tang Lê Văn Hđang bán trái phép chất ma túy cho Đặng Văn Tướng. Thu giữ trên tay trái của Tướng 01 gói nhỏ, vỏ gói là giấy màu trắng xanh, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong ký hiệu M1), Tướng khai nhận đó là ma túy Tướng vừa mua của Hồng giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Thu giữ của Lê Văn Hsố tiền 200.000 đồng là tiền vừa bán 01 gói ma túy cho Tướng mà có. Thu giữ trong túi quần trước bên phải đang mặc của Lê Văn H05 gói nhỏ (gồm: 02 gói vỏ là giấy màu trắng, 03 gói vỏ là giấy màu trắng xanh) bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong ký hiệu M2), Hồng khai nhận đều là Heroine mua về để bán kiếm lời. Ngoài ra còn tạm giữ của Lê Văn H01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng có số thuê bao 0945.865.622. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Văn Hồng: thu giữ trên mặt bàn kê ở phía Nam phòng khách nhà Lê Văn Hchất bột dạng cục màu trắng, Hồng khai nhận là Heroine mua về để bán kiếm lời (được gói lại bằng giấy màu trắng, niêm phong ký hiệu K).

Tại bản kết luận giám định số 157/GĐKTHS ngày 12/02/2020 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 phong bì thư được niêm phong ký hiệu M1, M2 và K gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M1: 0,046 gam; Khối lượng mẫu M2: 0,797 gam; Khối lượng mẫu K: 0,162 gam. Tổng khối lượng M1, M2, K là 1,005 gam.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Lê Văn Hđã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai nhận: Khoảng 8 giờ ngày 11/02/2020, Hồng đi xe buýt từ nhà đến khu vực chân cầu Đò Quan, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 350.000 đồng. Sau đó Hồng đi xe buýt về nhà, chia gói ma túy đã mua ra thành 07 gói nhỏ, mục đích để bán kiếm lời. Đến khoảng 11 giờ 10 phút cùng ngày, khi Hồng đang gói lại số ma túy vừa chia thì Đặng Văn Tướng đi bộ đến nhà Hồng để hỏi mua 200.000 đồng tiền Heroine. Khi Hồng và Tướng mua bán ma tuý thì bị bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 23/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo như tội danh và điều luật đã nêu. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lê Văn Htừ 08 năm 06 tháng tù đến 09 năm 06 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 157/GĐKTHS ngày 12/02/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng, có số seri là: LE 10759149; Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, có số thuê bao 0945.865.622; đề nghị áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc để tuyên án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa: Nhất trí với bản cáo trạng, quan điểm luận tội của vị đại diên Viện kiểm sát nhân dân huyện N. Bị cáo là người cao tuổi, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 11/02/2020, tại nhà Lê Văn Hồng, Hồng đã có hành vi bán trái phép 0,046 gam heroine cho Đặng Văn Tướng với giá 200.000 đồng và tàng trữ 0,959 gam heroine nhằm mục đích bán kiếm lời. Tổng khối lượng heroine bị cáo có hành vi mua bán trái phép là 1,005 gam. Năm 2005, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 năm 06 tháng tù, về tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”. Bị cáo chưa thi hành xong số tiền phạt sung quỹ nhà nước. Ngày 11/02/2020, bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này của bị cáo vẫn được xác định với tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, gây trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Bị cáo đã hai lần bị xét xử về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm minh là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập chung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong số 157/GĐKTHS ngày 12/02/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, cần tịch thu tiêu huỷ; Số tiền 200.000 đồng, có số seri là: LE 10759149, cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, có số thuê bao 0945.865.622, cần trả lại cho bị cáo.

[6] Đối với Đặng Văn Tướng, Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đặng Văn Tướng là phù hợp.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lê Văn Hsáng ngày 11/02/2020, hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra xử lý sau.

[7] Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

2. Xử phạt bị cáo Lê Văn H08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/02/2020.

3. Xử lý vật chưng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 157/GĐKTHS ngày 12/02/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng, có số seri là: LE 10759149.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, có số thuê bao 0945.865.622.

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 24/3/2020.

4. Án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về