Bản án 29/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC THUỶ, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 01 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 , theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Bị cáo: Bùi Văn Lnh, sinh ngày 18/05/1990. Tại: L Th, Hoà Bình.

ĐKHKTT và trú tại: thôn A Ph, xã Th Nh, huyện L Th, tỉnh Hoà Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Văn H, sinh năm 1968; con bà: Bùi Thị T, sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 24/12/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Ngày 17/10/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù giam.

Tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/08/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hòa Bình. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Người bị hại:

- Anh: Đặng Văn A1, sinh năm 1994. Vắng mặt. HKTT: Vn Lp, Hng Ging, Đng Hng, Thái Bình.

Tạm trú tại: thôn Ln Ph 3, xã Th Nh, L Th, Hòa Bình.

- Anh: Bùi Văn Đng, sinh năm 1986. Vắng mặt. Trú tại: xóm Đ 2, xã Km B, Km B, Hòa Bình.

- Anh: Nguyễn Đức Cng, sinh năm 1972. Có mặt. Trú tại: thôn 7, xã Ph Ngh, L Th, Hòa Bình.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông: Nguyễn Duy Phng, sinh năm 1969. Vắng mặt. Trú tại: thôn Ln Phng, xã Thch Bnh, Nh Qn, Ninh Bình.

- Anh: Lê Định Chng, sinh năm 1976. Vắng mặt.

Trú tại: thôn Ln Phng, xã Thch Bnh, Nh Qn, Ninh Bình.

- Ông: Bùi Văn H, sinh năm 1968. Có mặt.

Trú tại: thôn A Ph, xã Th Nh, L Th, Hòa Bình.

4. Người làm chứng:

- Anh: Lê Thanh T, sinh năm 1990. Có mặt.

Trú tại: thôn A Ph, xã Th Nh, huyện L Th, tỉnh Hòa Bình.

- Anh: Kiều Khắc Thnh, sinh năm 1958. Vắng mặt. Trú tại: Y Lc 3, Cn Km, Thch Tht, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa - nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 22/8/2020 bị cáo Bùi Văn Lnh từ nhà cầm theo 01 chiếc xà cầy đi vào trường mầm non An Lạc đang xây dựng. Lnh quan sát không thấy có người và phát hiện trong phòng số 6 của dãy nhà cấp bốn trường mầm non xã An Lạc có để rất nhiều thùng sơn, cửa phòng được khóa cẩn thận. Lnh dùng xà cầy bẩy cánh cửa phía sau vào trong lấy trộm 03 (ba) thùng sơn loại 18 lít nhãn hiệu STAR KOLOR. Khi mang ra ngoài thì bị phát hiện, Lnh bỏ sơn lại và chạy về nhà tắm và thay quần áo phơi lên dây phơi trước cửa nhà. Quá trình điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ xác định Bùi Văn Lnh là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra (CQ CSĐT) Công an huyện Lạc Thủy ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và lệnh khám xét khẩn cấp đối với Bùi Văn Lnh.

Trong quá trình điều tra vụ án, ngoài hành vi trộm cắp tài sản 03 (ba) thùng sơn ra Lnh còn khai nhận trong thời gian từ ngày 15/04/2020 đến ngày 07/08/2020 Lnh còn thực hiện liên tiếp 03 (ba) vụ trộm cắp tài sản tại Trường mầm non A Lc, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình.

+ Vụ thứ nhất: Ngày 15/04/2020 lợi dụng sơ hở của công nhân đang thi công trường mầm non A Lc, Lnh đã trộm cắp 01 (một) máy hàn nhãn hiệu HULAMAX electric màu đỏ đã qua sử dụng và 01 (một) máy bơm nước nhãn hiệu Jet 100 màu xanh đã qua sử dụng của anh Bùi Văn Đng. Lnh mang tài sản trộm cắp được bán cho ông Nguyễn Duy Phng với giá 650.000đ (Sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Vụ thứ hai: Ngày 01/07/2020 lợi dụng sơ hở của công nhân đang thi công tại trường mầm non A Lc, Lnh đã trộm cắp 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Sam Sung J6 của anh Bùi Văn Đng. Lnh mang tài sản trộm cắp được bán cho một người đàn ông lạ mặt đi đường với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

+ Vụ thứ ba: Ngày 07/08/2020 Lnh lẻn vào trong phòng của công nhân đang thi công tại trường mầm non A Lc trộm cắp 01 (một) Laptop nhãn hiệu DELL 5548 vỏ màu bạc của anh Đặng Văn A1. Lnh đã mang tài sản trộm cắp được bán cho anh Lê Định Chng với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Tại Kết luận định giá tài sản số 15 ngày 28/08/2020 và số 19 ngày 02/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc Thủy kết luận: 03 (ba) thùng sơn loại 18 lít nhãn hiệu STAR KOLOR có tổng giá trị là: 4.398.000 đồng (Bốn triệu ba trăm chín mươi tám nghìn đồng); 01 (một) máy hàn nhãn hiệu HULAMAX electric cũ đã qua sử dụng có giá trị là: 470.000 đồng (Bốn trăm bẩy mươi nghìn đồng); 01 (một) máy bơm nước nhãn hiệu Jet 100 cũ đã qua sử dụng có giá trị là: 970.000 đồng (Chín trăm bẩy mươi nghìn đồng); 01 điện thoại Sam Sung J6 cũ đã qua sử dụng có giá trị là: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng); 01 (một) Laptop DELL 5548 cũ đã qua sử dụng có giá trị là: 5.167.000 đồng (Năm triệu một trăm sáu mươi bẩy nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản Lnh trộm cắp được là: 14.005.000 đồng (Mười bốn triệu, không trăm Lnh năm nghìn đồng).

Cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 19/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Lạc Thủy truy tố Bùi Văn Lnh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS).

* Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu sài cá nhân.

- Người bị hại là anh Nguyễn Đức Cng đã nhận được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người bị hại là anh Đng Văn A1: Đã nhận tiền bồi thường, không có yêu cầu gì thêm, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Anh Bùi Văn Đng: Đã nhận được Máy hàn nhãn hiệu HULAMAX electric và máy bơm nước nhãn hiệu Jet 100. Còn chiếc điện thoại Sam Sung J6 anh yêu cầu bị cáo bồi thường 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ ông Nguyễn Duy Phng: Bị cáo Lnh và gia đình đã bồi thường xong, không yêu cầu gì thêm, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

+ Anh Lê Định Chng: Không có yêu cầu gì.

+ Ông Bùi Văn H không yêu cầu bị cáo Lnh bồi hoàn số tiền ông đã bỏ ra để bồi thường khắc phục hậu quả cho bị cáo Lnh.

- Đại diện Viện kiểm sát trình bày bản luận tội, giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

+ Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Bùi Văn Lnh từ 24 đến 30 tháng tù.

+ Về dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

+ Về hình phạt bổ sung: không đề nghị áp dụng hình phạt tiền do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản.

+ Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tuyên trả lại mười tám mét dây thừng cho anh Nguyễn Đức Công;

Tịch thu tiêu hủy một xà cày bằng kim loại màu đen do đây là công cụ phạm tội.

+ Áp dụng: khoản 1,3 Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Về án phí và quyền kháng cáo đề nghị tuyên theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối lỗi, nhận ra hành vi phạm tội, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định tố tụng: Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Thuỷ, Điều tra viên; VKSND huyện Lạc Thuỷ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ khẳng định: Hành vi lợi dụng sơ hở của các chủ sở hữu tài sản trong khoảng thời gian từ ngày 15/04/2020 đến ngày 22/08/2020, bị cáo Bùi Văn Lnh đã lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại là anh Đặng Văn A1, anh Bùi Văn Đng, anh Nguyễn Đức Cng tại công trường Trường mầm non A Lc, huyện L Th, tỉnh Hòa Bình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 15 ngày 28/08/2020 và số 19 ngày 02/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc Thủy kết luận tổng giá trị tài sản Lnh trộm cắp là 14.005.000 đồng (Mười bốn triệu, không trăm Lnh năm nghìn đồng).

[3]. Về tội danh và hình phạt: Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thủy truy tố bị cáo về tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương, đã trực tiếp xâm phạm một cách trái pháp luật đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, do đó bị cáo phải chịu hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã 02 lần bị xử lý hình sự về tội Trộm cắp tài sản (Ngày 24/12/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 06 tháng tù; Ngày 17/10/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù giam, bị cáo đã được xóa án tích).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, gia đình đã bồi thường khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Ngoài ra, bị hại có đơn xin miễn giảm hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lnh có 04 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (03 lần tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên), nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo đã bị xử lý hình sự và phải đi chấp hành án phạt tù nhưng bị cáo đã không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục liên tiếp thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các vấn đề khác:

Trong vụ án này đối với hành vi của ông Nguyễn Duy Phng, anh Lê Định Chng là người mua tài sản do Lnh trộm cắp, nhưng qua điều tra xác minh ông Phng, anh Chng không biết tài sản đó là do Lnh trộm cắp mà có, CQ CSĐT Công an huyện Lạc Thủy không xử lý nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Đối với người mua chiếc điện thoại Sam Sung J6 cũ đã qua sử dụng mà Lnh đã bán. Quá trình điều tra, xác minh của CQ CSĐT Công an huyện Lạc Thủy không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người mua ở đâu, không có cơ sở để xử lý, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo nhất trí với mức bồi thường chiếc điện thoại Sam sung cho người bị hại Bùi Văn Đng số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), nhưng đến nay chưa bồi thường được nên HĐXX căn cứ vào Điều 584; 585; 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Bùi Văn Lnh phải bồi thường cho người bị hại Bùi Văn Đng số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Người bị hại là anh Đặng Văn A1 đã được bị cáo và gia đình bồi thường và không yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người bị hại là anh Nguyễn Đức Cng đã nhận được tài sản và không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Duy Phng, ông Bùi Văn H không yêu cầu bị cáo bồi thường, bồi hoàn nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6]. Về hình phạt bổ sung:

Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo Lnh là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt sổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7]. Về xử lý vật chứng: Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

[8]. Về án phí: Bị cáo Bùi Văn Lnh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quyền kháng cáo được tuyên theo quy định tại Điều 331 BLTTHS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Lnh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Bùi Văn Lnh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/08/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584; 585; 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Bùi Văn Lnh phải bồi thường cho người bị hại Bùi Văn Đng số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47; Điều 48 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

+ Trả lại 18 (mười tám) mét dây thừng cho anh Nguyễn Đức Cng.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) xà cày bằng kim loại.

(Toàn bộ số vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình)

4. Về án phíÁp dụng Khoản 2 Điều 136 – BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Bùi Văn Lnh phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Người người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về