Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 14 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 65/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020, quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST – HPT ngày 28/7/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Phương T, sinh năm 1984 (có mặt) HKTT: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Đỗ Xuân C, sinh năm 1977 (vắng mặt) HKTT: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

Nơi ở: Tổ dân phố P, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/01/2020 và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn – chị Nguyễn Phương T trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị kết hôn với anh Đỗ Xuân C vào ngày 10/9/2014 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang nhưng tổ chức cưới thì từ năm 2013. Trước khi cưới vợ chồng chị được tìm hiểu nhau khoảng thời gian ngắn rồi kết hôn do vợ chồng chị làm cùng công ty. Sau khi cưới, vợ chồng chị về ở trên nhà bố mẹ đẻ chị ở Thượng Lan để lại (do bố mẹ chị đã mất), anh C cũng đã chuyển khẩu về trên Thượng Lan. Cuộc sống vợ chồng chị không có hạnh phúc do anh C thường xuyên rượu chè đánh đập chị và các con, không quan tâm chăm lo gia đình, không chịu khó làm ăn. Anh C đã về nhà bố mẹ đẻ ở Phúc Lâm từ đầu năm 2020. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho tới nay, không ai còn quan tâm tới ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Đỗ Lan C, sinh ngày 02/9/2014 và cháu Đỗ Tú U, sinh ngày 20/9/2016. Hiện nay, cháu Cvà cháu U đang ở cùng chị và phát triển bình thường. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả cháu Cvà cháu U. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn – anh Đỗ Xuân C: Đã được Tòa án triệu tập, niêm yết tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh C không viết bản tự khai, không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án.

Xác minh tại địa phương, chính quyền thôn C, xã T cho biết: Chị Nguyễn Phương T và anh Đỗ Xuân C đều có hộ khẩu tại thôn Chằm, xã Thượng Lan. Tuy nhiên, anh C ở rể tại nhà chị T còn gia đình anh C ở Phúc Lâm, Hoàng Ninh (nay là thị trấn Nếnh). Chị T anh C kết hôn khoảng năm 2014-2015. Sau khi kết hôn thì anh C về nhà chị T ở (do bố mẹ chị T đã mất). Quá trình chung sống, anh C thường xuyên có hành vi đánh đập chị T và các con chung, phá phách đồ đạc trong gia đình. Chính quyền địa phương cũng như công an xã đã xuống can thiệp nhiều lần việc anh C đánh đập vợ con. Từ đầu năm 2020 đến nay, anh C không còn ở nhà chị T nhưng thi thoảng anh C vẫn lên và trèo cổng vào nhà. Nay chị T xin ly hôn anh C và đề nghị giải quyết việc nuôi con chung của vợ chồng, thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xác minh tại địa phương, chính quyền tổ dân phố P, thị trấn N cho biết: Chị Nguyễn Phương T và anh Đỗ Xuân C kết hôn với nhau bao giờ thì địa phương không nắm được. Chị T cũng không về làm dâu gia đình nhà anh C mà anh C lên ở rể trên nhà chị T. Do đó, địa phương không nắm được chị T anh C mâu thuẫn với nhau như thế nào. Hiện nay, anh C đã về nhà bố mẹ đẻ nhà anh C ở tổ dân phố P để ở còn chị T thì không thấy về. Việc vợ chồng chị T có mâu thuẫn dẫn tới chị T xin ly hôn và đề nghị giải quyết việc nuôi con chung của vợ chồng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn – chị Nguyễn Phương T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình. Về quan hệ vợ chồng, chị xin ly hôn anh Đỗ Xuân C. Lý do chị xin ly hôn anh C vì anh thường xuyên đánh đập, chửi bới chị và gia đình chị, không chịu khó làm ăn, không quan tâm gì tới gia đình vợ con. Đã 3 lần chị làm đơn xin ly hôn anh C và gửi xuống Tòa án huyện Việt Yên nhưng sau khi Tòa án thụ lý, bố mẹ anh C có lên xin và chị nghĩ các con còn bé nên rút đơn về. Nhưng anh C không chịu sửa đổi, vẫn thường đánh đập chị và con riêng của chị. Ngày gần đây nhất là ngày 26/7/2020 khi chị đang đi làm về thì anh C có chặn xe và đánh chị, chị phải chạy vào cầu cứu hàng xóm ven đường. Ngoài ra anh C còn đe dọa nếu chị không rút đơn xin ly hôn về thì sẽ giết cả nhà. Về con chung, chị xác định vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Đỗ Lan C, sinh ngày 02/9/2014 và cháu Đỗ Tú U, sinh ngày 20/9/2016. Hiện nay cả cháu Cvà cháu U đều đang ở cùng chị. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi cả cháu Cvà cháu U vì các cháu còn nhỏ. Chị không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị làm công nhân, thu nhập khoảng 9.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/01 tháng nên chị có đủ điều kiện nuôi con. Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác chị xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đỗ Xuân C đã được niêm yết triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đìnhđiểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án, xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Phương T được ly hôn anh Đỗ Xuân C. Về con chung: Giao chị Nguyễn Phương T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đỗ Lan C, sinh ngày 02/9/2014 và cháu Đỗ Tú U, sinh ngày 20/9/2016. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

Về án phí: Chị Nguyễn Phương T phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Phương T xin ly hôn anh Đỗ Xuân C và đề nghị giải quyết việc nuôi con chung của vợ chồng nên đây là quan hệ pháp luật về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn là anh Đỗ Xuân C hiện có địa chỉ tại tổ dân phố P, thị trấn N, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nên theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Anh C đã được niêm yết triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Do vậy, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh C.

[2] Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Phương T trình bầy chị và anh C kết hôn ngày 10/9/2014 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chị T cũng đã cung cấp được giấy đăng ký kết hôn bản gốc. Như vậy, hôn nhân của chị T anh C là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Nay chị T xin ly hôn, anh C đã được mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị T nhận và giao lại các thông báo, văn bản tố tụng của Tòa án và cũng đã được niêm yết các văn bản tại địa phương nhưng anh C không hợp tác làm việc, không có bản tự khai, không mong muốn hòa giải vợ chồng về đoàn tụ. Qua xác minh tại địa phương thì thấy anh C đã về nhà bố mẹ đẻ từ đầu năm 2020, vợ chồng không ai còn quan tâm tới ai. Điều đó có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[3] Về con chung: Chị T xác nhận chị và anh C có 02 con chung là cháu Đỗ Lan C, sinh ngày 02/9/2014 và cháu Đỗ Tú U, sinh ngày 20/9/2016. Ly hôn, chị T có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung. Anh C không có bản tự khai, không lên Tòa án làm việc nên không thể hiện nguyện vọng về con chung. Hội đồng xét xử XÉT THẤY

Cháu Cvà cháu U là con gái, còn nhỏ và hiện đang sống cùng chị T. Bản thân chị T cũng như chính quyền địa phương xác nhận anh C thường có hành vi bạo lực với chị T và cả các con. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của các cháu không bị xáo trộn cũng như bị ảnh hưởng tâm lý bởi hành vi bạo lực gia đình thì cần giao cháu Cvà cháu U cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh C không có bản tự khai, không thể hiện nguyện vọng của mình nên HĐXX không xem xét trong vụ án này.

[4] Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng đất: Chị Nguyễn Phương T xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, chị Nguyễn Phương T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, cần áp dụng các Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình:

- Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự:

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Phương T được ly hôn anh Đỗ Xuân C. Về con chung: Giao chị Nguyễn Phương T được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đỗ Lan C, sinh ngày 02/9/2014 và cháu Đỗ Tú U, sinh ngày 20/9/2016. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T. Anh C có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Nguyễn Phương T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số AA/2016/0001053 ngày 10/02/2020 tại Ccục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo thời hạn kháng cáo là 15 ngày cho đương sự có mặt biết kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về