Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 128/2020/ TLST - HNGĐ ngày 18/5/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 03/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Vũ Văn L, sinh năm: 19xx; ĐKHKTT tại: Tổ xx, khu S, phường Đ, thành phố P, tỉnh N - Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Chị Phạm Thị Thu N, sinh năm: 19xx; ĐKHKTT tại: Tổ xx, khu S, phường Đ, thành phố P, tỉnh N - Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Vũ Văn L đều trình bày: Anh và chị Phạm Thị Thu N kết hôn với nhau từ năm 2002 có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố P, kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Trước khi kết hôn anh chị có thời gian tìm hiểu nhau 03 tháng, sau khi kết hôn vợ chồng anh về sống tại tổxxx, khu S, phường Đ, thành phố P. Cuộc sống chung của anh chị hạnh phúc được 6 năm, đến năm 2008 thì xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh phát hiện chị N có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác nên vợ chồng thường xuyên xô sát dẫn đến đánh cãi, xúc phạm lẫn nhau. Vì thương các con còn nhỏ nên anh cũng đã tha thứ cho chị N nhưng chị N không thay đổi nên mâu thuẫn vợ chồng trở lên căng thẳng hơn. Gia đình hai bên cũng khuyên can, hòa giải cho vợ chồng anh nhưng cũng không hàn gắn được. Nhiều năm liền anh chị không còn dành tình cảm cho nhau, vợ chồng vẫn cố gắng duy trì cuộc hôn nhân vì các con đều đang ở tuổi ăn học, sợ ảnh hưởng đến tâm lý các con. Từ năm 2015, anh chị sống không hạnh phúc, không quan tâm đến cuộc sống của nhau, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài mà cũng không khắc phục được thì anh mới quyết định làm đơn xin ly hôn chị N, anh nhờ con gái Vũ Thị Thùy D đưa đơn xin ly hôn nhưng chị N không ký mà bảo để mặc anh muốn làm gì thì làm. Đến nay anh không còn tình cảm dành cho chị N nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn để ổn định cuộc sống.

+ Về con chung: Anh và chị Phạm Thị Thu N có 03 con chung là Vũ Thanh L2, sinh ngày xx/xx/20xx; Vũ Hoài N, sinh ngày xx/xx/20xx và Vũ Thị Thùy D, sinh ngày xx/xx/20xx. Tại đơn khởi kiện và tại bản tự khai anh có quan điểm khi ly hôn anh là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Thanh L2 và Vũ Hoài N còn chị N là là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Vũ Thị Thùy D, anh và chị N không phải cấp dưỡng cho con. Tại phiên tòa anh thay đổi quan điểm vì hiện nay con chung Vũ Thanh L2 đã đủ 18 tuổi, không có nhược điểm về thể chất và tinh thần, chị N không có việc làm và thu nhập ổn định để đảm bảo nuôi dưỡng con chung, bản thân chị N cũng không có quan điểm về con chung khi anh chị ly hôn nên để đảm bảo sự phát triển của cả các con chung anh đề nghị Tòa án giao cả hai con chung là Vũ Hoài N và Vũ Thị Thùy D cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên. Được nuôi dưỡng con chung anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con, hiện nay anh làm công nhân Công ty đưa đón thợ mỏ, thu nhập bình quân 10 triệu đồng/tháng, nên đủ điều kiện nuôi dưỡng các con chung. Chị N được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

+ Về tài sản chung: Anh và chị N nhiều năm sống không có hạnh phúc, kinh tế không chung nhau nên không mua sắm được tài sản gì chung; Công nợ chung: Không có.

* Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn – chị Phạm Thị Thu N nhiều lần nhưng chị N cố tình vắng mặt do vậy Tòa án không lấy được lời khai của chị N, chị N không có quan điểm gì về quan hệ hôn nhân, về con chung cũng như tài sản và công nợ chung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả có ý kiến cho rằng Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Xác định đúng quan hệ tranh chấp và áp dụng các quy định của pháp luật giải quyết vụ án chính xác. Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận thấy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Vũ Văn L yêu cầu xin ly hôn với chị Phạm Thị Thu N hiện cư trú tại địa bàn thành phố Cẩm Phả nên Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả thụ lý giải quyết với quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn - chị Phạm Thị Thu N được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do, sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tống đạt hợp lệ cho chị N nhưng chị N cố tình không tham gia tố tụng theo quy định và cũng không có người đại diện tham gia tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

* Về quan hệ hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa anh Vũ Văn L và chị Phạm Thị Thu N là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố Cẩm Phả vào năm 2002. Sau kết hôn anh chị về sống tại tổ xx, khu S, phường Đ, thành phố P. Cuộc sống chung của anh chị hạnh phúc được 06 năm cho đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo anh L trình bày là do anh phát hiện chị N có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác, từ đó vợ chồng thường xuyên đánh cãi, chửi nhau. Vì thương các con nên anh L cũng đã tha thứ nhưng chị N không thay đổi khiến mâu thuẫn vợ chồng kéo dài mà không khắc phục được. Từ năm 2015 mâu thuẫn trầm trọng hơn nhưng anh chị vẫn cố gắng duy trì quan hệ hôn nhân vì các con đang ở tuổi ăn học nhưng không còn quan tâm đến nhau nữa, không tìm biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình. Bản thân chị N khi được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng cũng không đến để tham gia tố tụng, chứng tỏ chị N cũng không thiện chí hoặc trách nhiệm trong việc giải quyết mâu thuẫn, không có biện pháp tích cực để vợ chồng về đoàn tụ nên anh L xin ly hôn là hoàn toàn có căn cứ. Mâu thuẫn của anh L và chị N cũng phù hợp với lời khai của cả 03 con chung của anh chị và cũng phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân của anh chị tại nơi cư trú.

Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh L và chị N đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh L đối với chị N.

* Về con chung: Anh L và chị N có 03 con chung là Vũ Thanh L2, sinh ngày xx/xx/20xx (đã thành niên và hoàn toàn khỏe mạnh); Vũ Hoài N, sinh ngày xx/xx/20xx và Vũ Thị Thùy D, sinh ngày xx/xx/20xx, tại phiên tòa anh L thay đổi quan điểm về vấn đề trực tiếp nuôi con khi ly hôn, anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung Vũ Hoài N, Vũ Thị Thùy D, anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị N không chấp hành pháp luật, không đến Tòa án để tham gia tố tụng nên không có quan điểm về việc nuôi dưỡng con chung khi vợ chồng ly hôn, trong khi đó tại phiên tòa anh L thay đổi quan điểm muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cả con chung, quan điểm của anh cũng phù hợp với nguyện vọng của các con chung Vũ Hoài N và Vũ Thị Thùy D. Xét thấy yêu cầu nuôi dưỡng con chung của anh L là chính đáng, anh L cũng có thu nhập đảm bảo được việc nuôi dưỡng các con chung. Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử thấy cần thiết giao cả hai con chung là Vũ Hoài N và Vũ Thị Thùy D cho anh L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp và cũng như đảm bảo được các điều kiện cho sự phát triển cho con chung của anh chị. Do anh L không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom các con chung mà không ai được cản trở.

* Về tài sản và công nợ chung: Không có.

[3] Về án phí: Anh Vũ Văn L phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Vũ Văn L và chị Phạm Thị Thu N.

2. Về con chung: Anh L và chị N có 03 con chung là Vũ Thanh L2, sinh ngày xx/xx/20xx (đã thành niên và hoàn toàn khỏe mạnh); Vũ Hoài N, sinh ngày xx/xx/20xx và Vũ Thị Thùy D, sinh ngày xx/xx/20xx.

Giao 02 con chung là Vũ Hoài N và Vũ Thị Thùy D cho anh Vũ Văn L có quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Chị Phạm Thị Thu N không phải cấp dưỡng cho con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom các con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Vũ Văn L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh L đã nộp ngày xx/xx/20xx theo biên lai số: 00051xx tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Báo cho biết: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về