Bản án 29/2019/HSST ngày 31/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG TÀI – TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 29/2019/HSST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Tài - tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2019/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST - HS, ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

HOÀNG KIM T, sinh năm 1964

Nơi ĐKHKTT: Số38 Hàng Bông, phường H, quận H, TP Hà Nội.

Chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã Ng, huyện C, tỉnh Hải Dương.

Dân tộc: Kinh

Tôn giáo: Không 

Quốc tịch: Việt Nam

Nghề nghiệp: Lao động tự do,   Trình độ học vấn: 6/10

Con ông Hoàng Kim Ph và bà Hoàng Thị T ( Đều đã chết).

Có vợ là Nguyễn Thị Kim T (Đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 1993

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Từ năm 1974 đến năm 1998 bị 15 lần bị xử lý hành chính trong đó 12 lần về hành vi “ Trộm cắp tài sản” và “ Cưỡng đoạt tài sản”, 03 lần đi tập trung cải tạo.

- Năm 1988 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 18 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

- Năm 1990 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” theo bản án số 23/HSST, ngày 13/2/1990.

- Năm 1995 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số: 1019/HSST, ngày 20/12/1995.

- Năm 1999 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số: 1058/HSST, ngày 19/7/1999.

- Năm 2003 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 307/HSST, ngày 30/9/2003.

- Năm 2005 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 192/2005/HSST, ngày 11/8/2005.

- Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số: 01/2013/HSST, ngày 09/01/2013.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/3/2019 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh ( Có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Anh Cao Phan V, sinh năm 1983 (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Thôn Ph, xã Qu, huyện L, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ, tại xưởng nhôm kính nhà anh Cao Phan V, Hoàng Kim T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 (môt) chiếc máy cắt nhôm nhãn hiệu DCA - AJX 255 Made in China đã qua sử dụng, khi Toàn chưa dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu thì bị anh Vụ phát hiện và quát "Mày định làm gì?". Lúc đó, tay trái Toàn cầm thanh nhôm làm khung cửa dài 1m mục đích chống trả khi bị bắt nên anh Vụ nhặt chiếc gậy kéo cửa cuốn đánh về phía T, hậu quả T bị rách da vùng trán, T giằng được chiếc gậy và chạy thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ, thu giữ vật chứng gồm: 01 (môt) chiếc máy cắt nhôm nhãn hiệu DCA - AJX 255 Made in China đã qua sử dụng, 01 khóa cửa Việt Tiệp và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu masstel đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 18/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lương Tài kết luận: 01 (môt) chiếc máy cắt nhôm nhãn hiệu DCA - AJX 255 Made in China đã qua sử dụng có giá trị thành tiền là 3.000.000 đồng. (Ba triệu đồng chẵn).

Tại bản cáo trạng số: 23/CTr -VKS ngày 28 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài - Bắc Ninh truy tố bị cáo Hoàng Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy điṇh taị Khoản 1 Điều 173 Bô ̣luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài - tỉnh Bắc Ninh giữ quyền công tố tại phiên tòa trong bản luận tội đã phân tích động cơ, vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Kim T phạm tội“ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điều 15, Khoản 3 Điều 57, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Hoàng Kim T từ 06 đến 09 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Trả lại cho Hoàng Kim T 01 điện thoại nhãn hiệu masstel nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

-Tịch thu tiêu hủy 01 khóa cửa Việt Tiệp.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]  Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Hoàng Kim T đã khai nhận: Vào khoảng 12 giờ 40 phút ngày 18/03/2019, Hoàng Kim T, đi bộ từ nhà ra Cầu Sen thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương và thuê xe ôm của người không quen biết đến địa phận huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh mục đích xem ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến cửa hàng nhôm kính của gia đình anh Cao Phan V, T xuống xe và bảo người xe ôm đứng chờ. T vào và quan sát thấy cửa xưởng mở, không có người, T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T bước vào cửa xưởng, nhìn thấy 01 (môt) chiếc máy cắt nhôm nhãn hiệu DCA - AJX 255 Made in China nên T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc máy cắt nhôm trên. T bước lại gần, cúi xuống, dùng hai tay bê máy cắt, nâng lên khỏi mặt đất khoảng 40cm thì bị anh Cao Phan V từ trong nhà đi ra, phát hiện và quát "Mày định làm gì?". Lúc đó, tay trái T cầm thanh nhôm làm khung cửa dài 1m mục đích chống trả khi bị bắt nên anh V nhặt chiếc gậy kéo cửa cuốn đánh về phía T, hậu quả T bị rách da vùng trán, T giằng được chiếc gậy và chạy thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ, thu giữ vật chứng gồm: 01 (môt) chiếc máy cắt nhôm nhãn hiệu DCA - AJX 255 Made in China, 01 khóa cửa Việt Tiệp và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu masstel đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 18/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lương Tài kết luận: 01 (môt) chiếc máy cắt nhôm nhãn hiệu DCA - AJX 255 Made in China đã qua sử dụng có giá trị thành tiền là 3.000.000 đồng. (Ba triệu đồng chẵn).

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra. Như vậy căn cứ vào lời nhận tội của các bị cáo, lời khai của người bị hại, biên bản định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để kết luận: Hoàng Kim T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

[2] Trong vụ án này Hoàng Kim T đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, điều đó đã gây hoang mang trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Chính vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình sự để giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, do ăn chơi đua đòi, nghiện hút để đến khi không có tiền ăn tiêu thì bị cáo đã lao vào con đường trộm cắp tài sản của người khác để lấy tiền ăn tiêu. Chính vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bản thân bị cáo.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy rằng từ năm 1974 đến năm 1998 bị cáo bị 15 lần bị xử lý hành chính trong đó12 lần về hành vi “ Trộm cắp tài sản” và “ Cưỡng đoạt tài sản”, 03 lần đi tập trung cải tạo. Năm 1988 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 18 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Năm 1990 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” theo bản án số 23/HSST, ngày 13/2/1990; Năm 1995 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số: 1019/HSST, ngày 20/12/1995; Năm 1999 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số: 1058/HSST, ngày 19/7/1999; Năm 2003 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 307/HSST, ngày 30/9/2003; Năm 2005 bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 192/2005/HSST, ngày 11/8/2005 và Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo bản án số: 01/2013/HSST, ngày 09/01/2013.Tại thời điểm phạm tội tuy bị cáo đã được xóa án tích đối với các bản án trên, nhưng vẫn xét thấy bản thân bị cáo có nhân thân xấu. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải, mặt khác bố bị cáo tham gia kháng chiến và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, hơn nữa hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Chính vì vậy khi lượng hình cũng cần áp dụng Điều 15; Khoản 3 Điều 57, điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, nhưng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt.

[5]  Trong vụ án này anh Cao Phan V có hành vi gây thương tích cho T nhưng do thương tích không lớn, bị cáo T không đề nghị giải quyết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không xem xét, xử lý đối với anh Cao Phan V là phù hợp.

[5].1 Đối với người xe ôm chở T đến huyện Lương Tài, do T không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người xe ôm và khi thuê xe ôm T không nói mục đích đến Lương Tài để trộm cắp tài sản nên không có cơ sở để xem xét xử lý.

[6]  Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Cao Phan V đã nhận lại được tài sản nên không có yêu cầu bồi thường gì khác đối với bị cáo do vậy Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét giải quyết.

[7] Về vật chứng của vụ án gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu masstel là tài sản riêng của T không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho T, nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án là phù hợp. Còn đối với 01 khóa cửa Việt Tiệp là tài sản riêng của T không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng không còn giá trị sử dụng, mặt khác T đề nghị tiêu hủy nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[8] Về án phí: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Từ nhận xét trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173, Điều 15, Khoản 3 Điều 57, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Kim T phạm tội“ Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Hoàng Kim T 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày 18/3/2019 là ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

Tạm giam bị cáo 45 ( Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng: - Trả lại cho Hoàng Kim T 01 điện thoại nhãn hiệu masstel, nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy 01 khóa cửa Việt Tiệp.

Về án phí: Buộc Hoàng Kim T phải nộp là 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HSST ngày 31/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Tài - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về