Bản án 29/2019/HS-ST ngày 19/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 19/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành L, sinh năm: 1986, tại: Cần Thơ; Thường trú: Khu phố Thới An, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N (chết) và bà Nguyễn Thị Đ (chết); Tiền án: Không;Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 10/11/2018 (có mặt).

Bị hại: Bà Trương Thị P, sinh năm 1973 (vắng mặt)

Thường trú: Ấp Phú Hậu 1, xã H, huyện C, tỉnh T.

Tạm trú: D1/8 Khu phố 4, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 09/11/2018 Nguyễn Thành L đến phòng trọ (Phòng trọ người quen) không số địa chỉ: D1/8 Khu phố 4, thị trấn T, huyện B ngủ qua đêm. Đến khoảng 05 giờ 30 phút, ngày 10/11/2018, L thức dậy, mở cửa phòng trọ quan sát thấy phòng số 14 (đối diện) do bà Trương Thị P thuê đang khóa cửa ngoài và không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này L đi đến gần và leo lên tường, qua lỗ thông gió phía trước phòng trọ, rồi vào trong phòng lục tài sản; L mở tủ sắt đựng quần áo, mở học tủ nhỏ phía dưới lấy được 4.650.000 đồng và đang cầm trên tay thì nghe tiếng chị Trần Thị S là người quản lý khu nhà trọ, đang đứng bên ngoài tri hô có trộm nên L bỏ lại số tiền này vào hộc tủ. Chị S cùng người dân báo Công an thị trấn T đến mở cửa phòng trọ, lập biên bản bắt người tội quả tang.

Tại Cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

1. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng.

2. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B trình bày lời luận tội, giữ quan điểm truy tố như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo với mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

3. Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo cảm thấy hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra của bị cáo, bị hại, người làm chứng và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 10/11/2018, Nguyễn Thành L lợi dụng lúc bà P đi làm, L đã đột nhập vào phòng trọ của bà P và chiếm đoạt số tiền 4.650.000 đồng. Với hành vi đó bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, muốn chiếm đoạt tiền của người khác để tiêu xài nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Xét về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã trả cho bị hại nên chưa gây thiệt hại. Từ đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà đáng lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bà Trương Thị P vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện bà Phương đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Số tiền 4.650.000 đồng cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại nên ghi nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/11/2018.

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 19/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về