Bản án 29/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2019/HSST ngày 14 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn S, sinh ngày 15-04-1990, tại: xã H, huyện H, tỉnh T.

Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Đặng Thị H; tiền sự: không; tiền án: Bản án số 66/2015/HSST ngày 29-10-2015 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt Nguyễn Văn S 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và Bản án số 36/2017/HSST ngày 18-05-2017 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt Nguyễn Văn S 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26-11-2018 đến ngày 29-11-2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Xuân H, sinh ngày 27-07-1998, tại: Xã H, huyện H, tỉnh T.

Nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân C và bà Phạm Thị V; tiền sự: Quyết định số 01/2016/QĐ-TA ngày 18-02-2016 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Nguyễn Xuân H vào trường giáo dưỡng số 02, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thời gian chấp hành là 02 năm về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 01-01-2018, H chấp hành xong Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng; tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28-11-2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Nguyên đơn dân sự: Uỷ ban nhân dân (Viết tắt là UBND) xã V, huyện H, tỉnh T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lộ Văn D - Chủ tịch UBND xã.

Ngưi đại diện theo uỷ quyền của ông D: Ông Vũ Văn Kh - SN 1969

Trú quán: Thôn Ph, xã V, huyện H, tỉnh T.

Là Trưởng thôn Ph, xã V, huyện H, tỉnh T; có mặt

- Người bị hại: Chị Hoàng Thị Ph, sinh năm 1972

Nơi cư trú: Thôn C, xã M, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Duy Nh, sinh năm 1988

Nơi cư trú: Thôn Ph 2, xã X, huyện V, tỉnh T; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964

Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

2. Anh Phạm Quang M, sinh năm 1980

Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 08-10-2018 đến ngày 14-10-2018, Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H đã có hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và ngày 26-11-2018 Nguyễn Văn S đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khong 22 giờ ngày 08-10-2018, bị cáo Nguyễn Văn S đang ở nhà thì bị cáo Nguyễn Xuân H và anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 2001 ở thôn V, xã C, huyện H, tỉnh T đến chơi. Tại đây, bị cáo S rủ anh Đ và bị cáo H đi đến các chùa trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để trộm cắp tài sản, bị cáo H và anh Đ đồng ý. Đ lấy một chiếc then cửa sắt tròn dài khoảng 30cm trong nhà bị cáo S cho vào chiếc túi chéo của bị cáo S rồi đeo lên người. Sau đó, bị cáo H điều khiển xe máy nhãn hiệu SYMEZ 110 loại Angel biển kiểm soát 90B1-092.61của bị cáo S chở bị cáo S và Đ. Trên đường đi bị cáo S hỏi Đ “Có biết chỗ nào hay không” thì Đ trả lời “Biết” và chỉ đường cho bị cáo H đi đến Đền Tr thuộc thôn Ph, xã V, huyện H, tỉnh T. Khi đến gần cổng Đền Tr, bị cáo H dừng xe đứng ở ngoài cảnh giới còn bị cáo S và Đ đi vào trong Đền trộm cắp tài sản. Đ dùng thanh sắt cậy ổ khóa, cùng bị cáo S mở cửa đi vào trong Đền rồi dùng bật lửa mang theo, bật sáng để soi tìm tài sản. Bị cáo S lấy 01 chiếc loa nhãn hiệu Crown, 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia, Đ lấy 01 chiếc hòm đựng tiền công đức bằng tôn loại (30cm x 50cm được sơn màu đỏ) rồi bê ra ngoài chỗ bị cáo H. Sau đó, bị cáo H điều khiển xe máy chở bị cáo S và Đ đi về hướng thị trấn Hưng Hà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đi được khoảng 700m bị cáo S bảo bị cáo H đi ra khu vực cánh đồng, bị cáo H dừng xe, Đ bê hòm công đức xuống và dùng đoạn sắt phá khóa hòm công đức rồi đổ tiền ra đếm được 600.000 đồng. Số tiền trên cả ba đã chia nhau chi tiêu cá nhân hết, còn 01 chiếc loa nhãn hiệu Crown và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia bị cáo H đem về nhà sử dụng. Ngày 27-11-2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã thu giữ tại nhà bị cáo H: 01 chiếc loa nhãn hiệu Crown và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia.

Bản kết luận định giá tài sản số 02 ngày 26-11-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà xác định: 01 chiếc loa thùng cắm thẻ nhớ nhãn hiệu Crown đã qua sử dụng tại thời điểm xâm hại có giá trị thành tiền là 1.100.000đồng và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia dụng tại thời điểm xâm hại có giá trị thành tiền là 1.200.000đồng. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm xâm hại có giá trị thành tiền là: 2.300.000đồng.

Bản kết luận định giá tài sản số 05 ngày 28-11-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà xác định chiếc hòm tôn kích thước (50x30x30) cm đã qua sử dụng tại thời điểm xâm hại có giá trị thành tiền là 100.000đồng.

Vụ thứ hai: Khong 21 giờ ngày 14-10-2018, bị cáo S một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM EZ 110 loại Angel biển kiểm soát: 90B1-092.61 đi chơi về đến nhà chị Hoàng Thị Ph ở thôn C, xã M, huyện H, tỉnh T, thấy xung quanh không có người qua lại, cổng khóa. Bị cáo S dựng xe rồi trèo qua tường bao đi vào trong sân, thấy cửa chính khóa ngoài, bên trong nhà không có người, bị cáo S lấy một thanh sắt ở nhà chị Ph dài khoảng 50cm cậy bung ổ khóa cửa rồi mở cửa đi vào trong nhà. Bị cáo S lấy chiếc đèn pin ở trong nhà chị Ph soi tìm tài sản. bị cáo S đi lên tầng 2 vào phòng ngủ thì thấy có 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Sonny màn hình phẳng 32 inch để ở trên giường, bị cáo S lấy chiếc ti vi cùng dây nguồn và chiếc điều khiển ti vi bê để lên tường bao rồi trèo ra ngoài, đem về nhà cất giấu. Đến khoảng 08 giờ ngày 15-10-2018, bị cáo S mang đến nhà anh Nguyễn Duy Nh ở thôn Ph 2, xã X, huyện V, tỉnh Th nói là “Tivi của gia đình không dùng nữa đem bán”, anh Nh đồng ý mua với giá 1.000.000 đồng. Số tiền trên bị cáo S đã chi tiêu cá nhân hết.

Bản kết luận định giá tài sản số 06A ngày 30-11-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà, xác định: 01 ti vi nhãn hiệu Sony màn hình phẳng 32 inch và 01 chiếc điều khiển ti vi nhãn hiệu Sony, giá trị còn lại của tài sản tính đến thời điểm xâm hại là: 5.050.000 đồng.

Vụ thứ ba: Hi 17 giờ ngày 26-11-2018, Tổ công tác Công an huyện Hưng Hà phối hợp với Công an xã H, huyện H, tỉnh T tiến hành kiểm tra hành chính chỗ ở của bị cáo Nguyễn Văn S tại: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh T vì nghi bị cáo S có liên quan đến một số vụ trộm cắp tài sản. Qua kiểm tra, Tổ công tác thu giữ trong túi quần bên phải phía trước đang mặc trên người bị cáo S 01 xi lanh (bơm kim tiêm) bên trong có 01 đoạn ống nhựa màu vàng (loại ống hút) được hàn kín hai đầu, mở kiểm tra đoạn ống nhựa màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bị cáo S khai nhận là ma túy (Heroin), bị cáo mua của một người đàn ông khoảng 35 tuổi, không biết tên và địa chỉ ở khu vực xã V, huyện V, tỉnh T với giá 100.000đồng vào chiều ngày 26-11-2018 mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong đoạn ống nhựa trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ tại túi quần hậu bên phải của S: 01 giấy đăng ký xe mô tô số 024685 và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 024821 đều mang tên Trần Quang T; 01 giấy phép lái xe mô tô số 340007340210 mang tên Trần Quang T; 01 Chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Văn S; 01 vam phá khóa hình chữ T; 01 đầu chụp vặn ốc lục giác và số tiền 150.000đồng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn S, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, thu giữ: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát: 17B9-215.55; 01 xe máy nhãn hiệu SYMEZ 110 loại Angel 110 biểm kiểm soát 90B1-092.61 và 01 điều khiển ti vi nhãn hiệu Sony.

Bản kết luận giám định số 408/KLGĐ-PC09 ngày 27-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục chứa trong đoạn ống nhựa nhỏ màu vàng được hàn kín (dạng ống hút )gửi giám định là ma túy, loại Heroine (hêrôin) có khối lượng 0,1183 gam (không phẩy một nghìn một trăm tám mươi ba gam). Heroin STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKSHH ngày 12-3-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Xuân H về tội "Trộm cắp tài sản", theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà:

Các bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H đều khai nhận hành vi trộm cắp tài sản tại Đền Tr thuộc thôn Ph, xã V, huyện H, tỉnh T; bị cáo Nguyễn Văn S khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của chị Hoàng Thị Ph tại thôn C, xã M, huyện H, tỉnh T và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dụng vụ án đã nêu ở trên.

Ông Vũ Văn Kh là người đại diện cho nguyên đơn dân sự trình bày: Tại cơ quan Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, ông đã nhận những tài sản gồm: 01 chiếc loa nhãn hiệu Crown và 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia, còn lại 01 chiếc hòm tôn trị giá 100.000đồng và số tiền 600.000đồng mà các bị cáo trộm cắp tại Đền Tr đây là số tiền do nhân dân thôn Ph, xã V công đức vào Đền, nay ông và nhân dân thôn Ph không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của nhiều tội, buộc bị cáo S phải chấp hành hình phạt chung từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 26-11-2018; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H từ 01năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 28-11-2018; áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Nguyễn Văn S là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 408/KLGĐ-PC09 ngày 27-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, 01 xi lanh bằng nhựa trong suốt chưa qua sử dụng, 02 chiếc khóa chữ U bị hỏng, 01 mũi vam phá khóa bằng kim loại đã qua sử dụng và 01 đầu chụp vặn ốc lục giác bằng kim loại đã qua sử dụng; Tịch thu 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYMEZ 110, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 90B1-092.61 thu giữ của bị cáo S để hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước; Trả lại cho bị cáo S 01 căn cước công dân số 034090002246 mang tên Nguyễn Văn S và số tiền là 150.000đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án dân sự. Các bị cáo đều phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

c bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; các bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Về tội “Trộm cắp tài sản”: Lời khai của các bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Điều tra và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường vụ trộm cắp xảy ra tại Đền Tr thuộc thôn Ph, xã V, huyện H do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập ngày 09-10-2018; biên bản khám xét do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập ngày 26-11-2018; các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập; bản kết luận định giá tài sản số 02 ngày 26-11-2018, số 05 ngày 28-11-2018 và số 06A ngày 30-11-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Hưng Hà; đơn đề nghị và lời khai của người đại diện cho nguyên đơn dân sự là ông Vũ Văn Kh; đơn đề nghị và lời khai của người bị hại là chị Hoàng Thị Ph; lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Duy Nh; lời khai của những người làm chứng là chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn H. Như vậy, có đủ cơ sở xác định Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08-10-2018, các bị cáo Nguyễn Văn S, Nguyễn Xuân H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc loa nhãn hiệu Crown, 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia, 01 chiếc hòm tôn và số tiền 600.000 đồng của đền Tr thuộc thôn Ph, xã V, huyện H, tỉnh T, tổng trị giá tài sản là 3.000.000 đồng; khoảng 21 giờ ngày 14-10-2018, Nguyễn Văn S có hành vi trộm cắp 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Sonny 32 inch và 01 chiếc điều khiển ti vi của gia đình chị Hoàng Thị Ph ở thôn C, xã M, huyện H, tỉnh T trị giá 5.050.000 đồng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Nguyễn Văn S đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” đều chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm”, do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập ngày 26-11-2018; biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập ngày 26-11-2018; bản kết luận giám định số 408/KLGĐ-PC09 ngày 27-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của những người làm chứng: Anh Phạm Quang M và ông Nguyễn Văn Đ. Như vậy. có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 26-11-2018, tại chỗ ở của Nguyễn Văn S ở thôn H, xã H, huyện H, tỉnh T, bị cáo S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1183gam (không phẩy một nghìn một trăm tám mươi ba gam) ma túy, loại Hêrôin, mục đích sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo S đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” đều chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm”, Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Hành vi trộm cắp tài sản mà các bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân và gây ảnh hưởng đến trật tự trị an khu vực xảy ra tội phạm; hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Nguyễn Văn S thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

[5] Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo thấy: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo S là người chuẩn bị phương tiện, là người rủ rê bị cáo H và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nên giữ vai trò chính trong vụ án, bị cáo H đứng ngoài cảnh giới nên giữ vai trò thứ hai.

[6] Về các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo: Đối với hành vi trộm cắp tài sản: Bị cáo S bị áp dụng một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; cả hai bị cáo đều khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội, các bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên đều được áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; đối với hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo S không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 Bộ luật hình sự và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Từ các phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù theo quy định của khung hình phạt đối với từng tội, tiếp tục cách ly các bị cáo khỏi cuộc sống ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và có tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo S phạm nhiều tội nên còn bị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt của nhiều tội.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, chị Hoàng Thị Ph trình bày: Chị đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường thiệt hại; tại phiên tòa hôm nay, ông Vũ Văn Kh là người đại diện cho nguyên đơn dân sự không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản. Vì vậy, về việc bồi thường thiệt hại Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết tại phiên toà.

[9] Về xử lý vậy chứng: Toàn bộ số ma túy mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn S, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 408/KLGĐ-PC09 ngày 27-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, 01 xi lanh bằng nhựa trong suốt chưa qua sử dụng, 01 mũi vam phá khóa bằng kim loại đã qua sử dụng và 01 đầu chụp vặn ốc lục giác bằng kim loại đã qua sử dụng đều là những công cụ các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên tuyên tịch thu để tiêu hủy; 02 chiếc khóa chữ U bị hỏng thu giữ tại Đền Tr do ông Kh giao nộp, không còn giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu để tiêu hủy; 01chiếc xe máy nhãn hiệu SYMEZ 110, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 90B1-092.61, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã thu giữ của bị cáo S là tài sản hợp pháp của bị cáo S nhưng bị cáo dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu để hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã thu giữ của bị cáo S 01 căn cước công dân số 034090002246 mang tên Nguyễn Văn S và số tiền 150.000đồng, đây là những tài sản hợp pháp của bị cáo S không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án dân sự.

[10] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo Nguyễn Văn S khai nhận: Ngày 26-11-2018, bị cáo S gặp và mua của một người đàn ông khoảng 35 tuổi, không biết tên và địa chỉ ở khu vực xã V, huyện V, tỉnh T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo S nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[11] Trong quá trình điều tra, các bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H đều khai: Ngày 08-10-2018, Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H cùng với Nguyễn Hồng Đ, sinh năm 2001 ở thôn V, xã C, huyện H, tỉnh T trộm cắp 01 chiếc loa nhãn hiệu Crown, 01 chiếc âm ly nhãn hiệu Califonia và số tiền 600.000 đồng tại đền Tr thuộc thôn Ph, xã V, huyện H, tỉnh T. Quá trình điều tra xác định Nguyễn Hồng Đ không có mặt tại địa phương, không ghi được lời khai của Nguyễn Hồng Đ. Ngoài lời khai của hai bị cáo S và H thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh Nguyễn Hồng Đ đã cùng các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại đền Tr. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng, tỉnh Thái Bình tách ra, tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[12] Ngoài hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn S còn khai nhận: Vào tháng 11- 2018, bị cáo S đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát: 17B9-215.55 của gia đình anh Trần Quang T, sinh năm 1971, trú tại thôn Tr, xã T, thành phố T, tỉnh T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng, tỉnh Thái Bình đã chuyển tài liệu, vật chứng gồm: 01 giấy đăng ký xe mô tô số 024685 và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 024821 đều mang tên Trần Quang T, 01 giấy phép lái xe mô tô số 340007340210 mang tên Trần Quang T, 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát: 17B9-215.55 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh T để giải quyết theo thẩm quyền; bị cáo S còn thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy tại xã C, huyện L, tỉnh N, hiện nay Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh N đang thụ lý, giải quyết.

[13] Đối với anh Nguyễn Duy Nh là người đã mua chiếc tivi Sony của bị cáo Nguyễn Văn S với số tiền là 1.00.000đồng. Quá trình điều tra xác định khi mua tài sản anh Nh không biết là tài sản do S phạm tội mà có nên xác định đây là giao dịch bất hợp pháp nhưng ngay tình. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không xử lý đối với anh Nh là đúng quy định của pháp luật. Trong giai đoạn điều tra, lời khai của anh Nh trình bày: Anh không yêu cầu bị cáo S phải hoàn trả anh số tiền 1.000.000đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết tại phiên tòa.

[14] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. - Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của nhiều tội là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 26-11-2018.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 28-11-2018;

4. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 0,1090 gam (Không phẩy một nghìn không trăm chín mươi gam) chất bột màu trắng dạng cục chứa trong ống nhựa màu vàng được hàn kín (dạng ống hút) thu của Nguyễn Văn S gửi giám định và bao gói trong bao niêm phong hoàn lại đối tượng giám định số 408/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, 01 xi lanh bằng nhựa trong suốt chưa qua sử dụng, 02 chiếc khóa chữ U bị hỏng, 01 mũi vam phá khóa bằng kim loại đã qua sử dụng và 01 đầu chụp vặn ốc lục giác bằng kim loại đã qua sử dụng;

- Tịch thu để hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYMEZ 110, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 90B1-092.61 thu giữ của bị cáo S;

- Trả lại cho bị cáo S01 căn cước công dân số 034090002246 mang tên Nguyễn Văn S và số tiền là 150.000đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án dân sự.

(Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13-3-2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Các bị cáo Nguyễn Văn S và Nguyễn Xuân H, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự là ông Vũ Văn Kh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại là chị Hoàng Thị Ph và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Duy Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về