Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về kiện ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 29/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ KIỆN LY HÔN

Ngày 02/8/2019 tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 60/2019/TLST-HNGĐ ngày 26/02/2019 về việc “Kiện ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/6/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/QĐST- HNGĐ ngày 21/6/2019, giữa:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1993 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ dân phố a, thị trấn E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Anh Lý Văn Ph, sinh năm 1984 (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

Nơi cư trú: Buôn B, thị trấn E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Tâm là nguyên đơn trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Lý Văn Ph về chung sống với nhau từ tháng 11/2013 đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Th, huyện Hàm Y, tỉnh Tuyên Quang, kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, sau khi về sống chung hạnh phúc được một thời gian, đến đầu năm 2018 chị T, anh Ph bất đồng quan điểm trong cách sinh hoạt, nuôi dạy con cái nên chị T và anh Ph thường xuyên cải vã, đánh đập nhau. Đến cuối năm 2018 chị T phát hiện anh Ph có mối quan hệ với người phụ khác nên hai người sống ly thân từ đó đến nay, hiện cuộc sống không thể kéo dài được nữa, nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T ly hôn với anh Ph.

Về con chung: Chị T, anh Ph có 01 người con chung là Lý Thị Yến Nh, sinh ngày 08/4/2014. Nếu ly hôn chị T nhận nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hiện tại chị T không yêu cầu anh Phan cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

Về tài sản và nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

Quá trình điều tra thu thập tài liệu chứng cứ anh Lý Văn Ph là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của anh Ph về yêu cầu khởi kiện của chị T.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự tại phiên tòa thể hiện việc chị T khởi kiện yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình. Cho chị T ly hôn với anh Ph.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Pháp luật về tố tụng: Việc chị Phạm Thị T khởi kiện tại tòa án yêu cầu được ly hôn với anh Lý Văn Ph, Toà án thụ lý giải quyết là phù hợp khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập các đương sự đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Lý Văn Ph cố tình lẩn tránh vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi anh Ph cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn chị Phạm Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Pháp luật về nội dung:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Lý Văn Ph về chung sống với nhau từ tháng 11/2013, đăng ký kết hôn ngày 07/02/2014 tại UBND xã Yên Th, huyện Hàm Y, tỉnh Tuyên Quang theo giấy đăng ký kết hôn số 10. Sau một thời gian sống chung hạnh phúc, thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị T, anh Ph bất đồng quan điểm trong cách sinh hoạt, nuôi dạy con cái nên chị T và anh Ph thường xuyên cải vã, đánh đập nhau, hiện chị T không còn tình cảm gì với anh Ph, cuộc sống của vợ chồng không thể kéo dài được nữa, nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh Ph.

Căn cứ vào lời khai của đương sự và qua xác minh tại chính quyền địa phương thì chị T và anh Ph thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh Ph có hành vi đánh đập chị T nhiều lần, hiện tại hai người đã sống ly thân. Do đó, xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh Ph ngày càng trầm trọng, giữa hai người không còn thương yêu, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, thực tế hôn nhân không còn tồn tại. Vì vậy, việc chị T yêu cầu ly hôn với anh Ph là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

Về con chung: Chị T và anh Ph có 01 người con chung, trong quá trình giải quyết vụ án chị T xin được nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy, xét nguyện vọng nuôi con chung của chị T và hiện con chung đang còn nhỏ, nên cần giao con chung là Lý Thị Yến Nh, sinh ngày 08/4/2014 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hiện tại chị T không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

Anh Ph có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Lý Văn Ph.

2. Về nuôi con chung: Căn cứ vào Điều 58; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

2.1. Giao con chung Lý Thị Yến Nh, sinh ngày 08/4/2014 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hiện tại chị T không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

Anh Ph có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 19; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án;

Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo theo biên lai số AA/2017/0009139 ngày 21/02/2019.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

382
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về kiện ly hôn

Số hiệu:29/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về