Bản án 29/2018/HSST ngày 27/06/2018 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 27/06/2018 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 27/6/2018, tại trụ sở TAND huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2018/HSST ngày 01/6/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2018/QĐXXST-HS ngày 13/6/2018, đối với bị cáo:

- Vũ Thị H, sinh năm: 1988,

Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Kinh doanh nhà nghỉ; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo:

Không;

Con ông: Vũ Văn T, sinh năm 1958 (Là thương binh loại A) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1963; có chồng là: Nguyễn Văn M, sinh năm 1980; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/3/2018 đến nay. Có mặt.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Duy T, sinh năm: 1992, địa chỉ: Thôn Q1, xã Q2, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Duy B, sinh năm: 1970, địa chỉ: Thôn Q1, xã Q2, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1974, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; vắng mặt.

4. Chị Nguyễn Thị V (tên gọi khác: Nguyễn Thị Y), sinh năm: 1980, địa chỉ: Thôn Đ, xã X, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Thị H và chồng là Nguyễn Văn M là chủ nhà nghỉ M, tại thôn H, xã Đ, huyện G. Trong quá trình kinh doanh nhà nghỉ, Vũ Thị H biết Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V là những người bán dâm nên Vũ Thị H, Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V có trao đổi với nhau: nếu Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V có người mua dâm mà đưa đến nhà nghỉ M thì Vũ Thị H chỉ lấy tiền phòng; nếu nhà nghỉ của Vũ Thị H có khách đến nghỉ mà có nhu cầu mua dâm thì Vũ Thị H sẽ gọi Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V đến bán dâm, Vũ Thị H sẽ thu thêm 20.000 đồng tiền công gọi điện thoại và thu tiền phòng, Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V đồng ý và để lại số điện thoại cho Vũ Thị H.

Khoảng 12 giờ ngày 09/3/2018, Nguyễn Duy T và Nguyễn Duy B đến nhà nghỉ M để thuê nhà nghỉ. Tại nhà nghỉ M, T bảo Vũ Thị H cho thuê hai phòng nghỉ và có nhu cầu mua dâm nên nhờ Vũ Thị H gọi cho. Vũ Thị H đồng ý. Sau đó, Vũ Thị H điện thoại cho Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V đến nhà nghỉ của M để bán dâm cho khách. Sau khi gọi điện thoại cho Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V xong, Vũ Thị H bảo T lên phòng 301, B lên phòng 303 chờ. Trước khi lên, T có hỏi Vũ Thị H giá mua dâm hai nhân viên bao nhiêu thì Vũ Thị H trả lời là 600.000đ. T đồng ý rồi đưa cho Vũ Thị H 600.000đ, rồi T và B đi lên phòng chờ.

Sau đó, Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V đến nhà nghỉ M để thực hiện việc mua bán dâm (đến vào thời điểm khác nhau), Nguyễn Thị H và B quan hệ tình dục tại phòng 303, Nguyễn Thị V và T quan hệ tình dục tại phòng 301.

Sau khi quan hệ tình dục xong thì Nguyễn Thị H đi xuống gặp Vũ Thị H, Vũ Thị H đưa cho Nguyễn Thị H 200.000đ là tiền Nguyễn Thị H được hưởng qua việc bán dâm. Ngay lúc này, tổ công tác công an huyện Gia Bình ập vào kiểm tra, bắt quả tang T và Nguyễn Thị V đang có hành vi mua bán dâm tại phòng 301, B đang ở phòng 303 vừa thực hiện xong hành vi mua bán dâm với Nguyễn Thị H.

Về vật chứng của vụ án: Quá trình bắt quả tang, tổ công tác Công an huyện Gia Bình thu giữ vật chứng gồm:

- Thu giữ của Vũ Thị H một điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Vivo màu trắng, IMEI: 869525027581574 và 400.000 đồng;

- Thu giữ của Nguyễn Thị H một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đen trắng vỏ màu đen, số seri: 354644053901085, 01 bao cao su chưa qua sử dụng và 200.000 đồng;

- Thu giữ của Nguyễn Thị V một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, IMEI: 352706/04/256940/6;

- Thu giữ tại phòng 301 một bao cao su đã qua sử dụng.

Tại cáo trạng số 23/CT-VKS-GB ngày 31/5/2018 của VKSND huyện Gia Bình đã truy tố Vũ Thị H về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Do có thỏa thuận từ trước với Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V nên vào ngày 09/3/2018 khi T và B có nhu cầu mua dâm, Vũ Thị H đã điện thoại cho Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V đến bán dâm tại nhà nghỉ M. Đồng thời, Vũ Thị H đã cho các đối tượng T, B, Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V thực hiện việc mua bán dâm tại nhà nghỉ M. Vũ Thị H thu của T số tiền 600.000 đồng là tiền T và B mua dâm của Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V. Khi T và Nguyễn Thị V đang thực hiện hành vi mua, bán dâm tại phòng 301, còn B và Nguyễn Thị H vừa thực hiện xong hành vi mua, bán dâm ở tại phòng 303 thì bị Công an bắt quả tang. Bị cáo đã đưa cho Nguyễn Thị H số tiền 200.000 đồng tiền bán dâm; nếu không bị công an bắt quả tang, bị cáo sẽ đưa cho Nguyễn Thị V số tiền 250.000 đồng tiền bán dâm còn bị cáo được hưởng 150.000 đồng là tiền phòng và tiền công gọi điện thoại. Bị cáo xác định hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thấy ăn năn hối cải.

Đại diện VKSND huyện Gia Bình thực hành quyền công tố tại phiên toà công bố bản luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”;

Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 327, điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vũ Thị H từ 4 năm đến 4 năm 06 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao cao su chưa qua sử dụng và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: số tiền 600.000 đồng; 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Vivo màu trắng, IMEI: 869525027581574; một điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia đen trắng, vỏ màu đen, số seri: 354644053901085 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, IMEI: 352706/04/256940/6.

Sau khi nghe bản luận tội của VKSND huyện Gia Bình, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản luận tội đã nêu.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt và xin miễn hình phạt bổ sung do bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi và đang có thai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt và có đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án nên HĐXX vẫn tiếp tục xét xử theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, tang vật thu giữ được và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng hơn 13 giờ ngày 09/3/2018, tại nhà nghỉ M, ở thôn H, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, Vũ Thị H đã liên lạc với 02 người bán dâm là Nguyễn Thị V và Nguyễn Thị H đến nhà nghỉ M để thực hiện việc mua bán dâm với Nguyễn Duy T và Nguyễn Duy B; đồng thời bố trí phòng cho bốn người này thực hiện hành vi mua bán dâm tại nhà nghỉ do Vũ Thị H quản lý. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội “Chứa mại dâm” với tình tiết định khung hình phạt là: chứa mại dâm cùng một lúc 04 người. Do vậy, cáo trạng của VKSND huyện Gia Bình truy tố bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo điểm d Khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể được Luật hình sự bảo vệ, đó là trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, nếp sống văn hóa của dân tộc và còn là nguy cơ lây truyền bệnh tật. Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo biết được hậu quả của hành vi phạm tội nhưng vì hám lợi bị cáo vẫn thực hiện; tội phạm mà bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng. Vì vậy, cần xử bị cáo mức án nghiêm và áp dụng hình phạt tù giam tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo, thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong khoảng thời gian phạm tội bị cáo đang mang thai (theo giấy tờ của Bệnh viên sản nhi Bắc Ninh và Bệnh viện đa khoa huyện Gia Bình); bố đẻ bị cáo là thương binh loại A. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại điểm n, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bản thân bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo đang nuôi ba con nhỏ nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 600.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ.

Đối với 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Vivo màu trắng thu giữa của Vũ Thị H, 01 một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đen trắng thu giữ của Nguyễn Thị H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh thu giữ của Nguyễn Thị V: Đây là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, chị Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị V cũng đề nghị Tòa án tịch thu sung quỹ nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 (một) bao cao su chưa qua sử dụng và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, xét giá trị sử dụng không còn nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với Nguyễn Duy T, Nguyễn Duy B, Nguyễn Thị V và Nguyễn Thị H là những người có hành vi mua, bán dâm vào ngày 09/3/2018: Ngày 18/4/2018, Công an huyện Gia Bình đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với B và T về hành vi mua dâm và xử phạt hành chính đối với Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị V về hành vi bán dâm là phù hợp.

[8] Đối với anh Nguyễn Văn M (chồng của Vũ Thị H), là người đứng tên hộ kinh doanh nhà nghỉ M: Xét thấy, anh M làm nghề lái xe nên mọi việc kinh doanh nhà nghỉ anh giao cho Vũ Thị H và tại thời điểm Vũ Thị H chứa mại dâm ngày 09/3/2018, anh M không biết. Nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh M là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng:  Điểm d Khoản 2 Điều 327, Điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt Vũ Thị H 40 (Bốn mươi) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Vũ Thị H kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm chấp hành án phạt tù.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao cao su chưa qua sử dụng và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: số tiền 600.000 đồng; 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Vivo màu trắng, IMEI: 869525027581574; một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đen trắng, vở mầu đen, số xê-ri: 354644053901085 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, IMEI: 352706/04/256940/6.

Toàn bộ vật chứng nêu trên, hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/6/2018.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Vũ Thị H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

559
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HSST ngày 27/06/2018 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:29/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về