Bản án 29/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 29/2018/HS-ST NGÀY 20/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20-7-2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Trần Duy V, sinh năm 1972 tại xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn M, xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần D và bà Trần Thị M; vợ là Trần Thị N và có 01 con sinh năm 1995; tiền án: Ngày 11-5-2012, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 18-3-2013; ngày 30-3-2016, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12-01-2018; nhân thân: Ngày 21-11-2001, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 18-6-2004, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 17-6-2010, Công an huyện Bình Lục xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi “Trộm cắp vặt”; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 08-5-2018 và bị tạm giam từ ngày 17-5-2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1987 tại xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Đội X, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Trần Thị Th và có 01 con sinh năm 2010; tiền án: Ngày 26-10-2016, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25-8-2017; tiền sự: Ngày 22-9- 2017, Công an thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 30-01-2018, Công an huyện Bình Lục xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”; nhân thân: Ngày 20-02-2012, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29-10-2012; ngày 22-8-2016, Công an thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính 100.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị bắt, tạm giữ từ ngày 08-5-2018 và bị tạm giam từ ngày 17-5-2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên toà.

3. Trần Văn D, sinh năm 1953 tại xã T, huyện M, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện M, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Trần Thị N; có vợ là Trần Thị Th và có 02 con, lớn sinh năm 1977, nhỏ sinh năm 1980; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1981, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”; Năm 1983 bị đưa đi tập trung giáo dục cải tạo thời hạn 03 năm; ngày 12-7-1995, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; ngày 24-11-1999, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục xử phạt 03 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; bị bắt, tạm giữ từ ngày 09-5-2018 và bị tạm giam từ ngày 18-5-2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên toà.

- Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Ng sinh năm 1978; nghề nghiệp: Làm ruộng; nơi cư trú: Đội 11, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; có mặt.

2. Anh Trần Phú Đ, sinh năm 1970; nghề nghiệp: Làm ruộng.

3. Chị Trần Thị T, sinh năm 1976; nghề nghiệp: Làm ruộng.

Đều có nơi cư trú: Đội 4, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; đều vắng mặt.

4. Anh Trần Tr, sinh năm 1992; nghề nghiệp: Làm ruộng; nơi cư trú: Đội 10, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Duy V và Nguyễn Ngọc H là hai đối tượng nghiện chất ma túy và đều đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích), thường xuyên đi lang thang nhằm phát hiện sơ hở trong việc quản lý tài sản để trộm cắp bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Buổi chiều ngày 06-5-2018, V chở H bằng xe mô tô đi dọc các tuyến đường thuộc xã N, huyện B thì phát hiện thấy ở bờ ao nhà chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1978 ở đội 11, xã N có chiếc máy bơm nước hiệu Thiên Long công suất 1,75KW không có người trông coi. V dừng xe trên đường giáp ao nhà chị Ng để cảnh giới, còn H đi vào lấy trộm chiếc máy bơm này. Khi H bê chiếc máy bơm đi được khoảng 25 - 30 mét thì V đến cùng H bê chiếc máy bơm đặt lên xe mô tô rồi V chở H đến nhà Trần Văn D để bán. Khi gặp D, V nói: “Anh ơi em bán cho anh cái máy bơm”. Do quen biết từ trước và biết V là đối tượng nghiện ma túy, hiện không có tài sản gì nên khi thấy V mang máy bơm đến bán, D biết đây là tài sản do V trộm cắp mà có nhưng vẫn mua với giá 800.000 đồng. Sau khi có tiền, V chở H đến thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định mua ma túy cùng nhau sử dụng hết.

Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, V chở H đến nhà anh Trần Phú Đ, sinh năm 1970 và chị Trần Thị T, sinh năm 1976 ở đội 4, xã N, V dừng xe đứng ở đường để cảnh giới, còn H đi bộ vào dãy chuồng lợn của gia đình anh Đ trộm cắp hai chiếc máy bơm nước có công suất 0,75KW gồm 01 chiếc nhãn hiệu JET-100 Bảo Long - Lạng Sơn và 01 chiếc nhãn hiệu Gia Bảo. H xách hai chiếc máy bơm ra để lên khung xe máy 01 chiếc, còn 01 chiếc H ngồi sau ôm. V chở H đến cống Gạch thuộc đội 10, xã N cất giấu 2 chiếc máy bơm và nằm ngủ tại đó.

Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07-5-2018, V và H thức dậy tiếp tục đi theo tuyến đường ĐT 496 xem nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản, khi đến khu vực đội 10, xã N thì thấy trong căn lều tại cánh đồng của anh Trần Tr, sinh năm 1992 có 01 chiếc xe đạp nữ và 01 chiếc xe mô tô BKS 35N1 – 5xxx không có người trông coi. V dựng xe trên đường và cùng H xuống căn lều, V dắt xe mô tô BKS 35N1 – 5xxx đi trước, H dắt xe đạp đi sau. Lên đến đường, H bê xe đạp lên yên phía sau xe mô tô BKS 35N1 – 5xxx để V dắt bộ, còn H điều khiển xe mô tô đi về phía xã C. Khi đi đến khu vực thôn 8, xã Đ thì anh Chu Văn Th, sinh năm 1981 trú tại thôn 8, xã Đ, huyện B nghi vấn đối tượng trộm cắp tài sản nên đã hô hoán, V bỏ lại xe mô tô BKS 35N1 – 5xxx và chiếc xe đạp vừa trộm cắp được rồi lên xe mô tô do H điều khiển bỏ chạy. Khi thấy không có ai đuổi theo, H quay xe đi về cống Gạch lấy hai chiếc máy bơm đã trộm cắp của gia đình anh Đ mang đến bán cho Trần Văn D. V nói với D hai chiếc máy bơm này V lấy của anh em nhà V và bán với giá 500.000 đồng, D đồng ý mua và trả cho V 500.000 đồng. Sau khi có tiền, V, H cùng nhau đi mua ma túy và sử dụng hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục đã khám nghiệm hiện trường vụ trộm cắp tài sản xảy ra hồi 01 giờ 30 phút ngày 07- 5-2018 tại đội 10, xã N, khám xét khẩn cấp đồ vật, chỗ ở của Trần Văn D. Qua khám xét đã thu giữ 03 máy bơm nước (gồm 01 chiếc nhãn hiệu Thiên Long công suất 1,75KW; 01 chiếc nhãn hiệu JET-100 Bảo Long - Lạng Sơn công suất 0,75KW và 01 chiếc nhãn hiệu Gia Bảo công suất 0,75KW). Anh Chu Văn Th đã giao nộp cho lực lượng công an 01 chiếc xe mô tô BKS 35N1 – 5xxx và 01 chiếc xe đạp màu đen.

Ngày 11-5-2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Lục định giá tài sản đối với toàn bộ những vật chứng đã thu giữ nêu trên. Tại bản kết luận định giá tài sản số 03 ngày 11-5-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Lục kết luận: “Trị giá của 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu LIFAN, đã qua sử dụng, BKS 35N1 – 5xxx, màu sơn xanh, số máy 40001678, số khung 001678, xe không có yếm, không có khung nhựa để lộ phần lốc máy là: 500.000 đồng; trị giá 01 (một) chiếc xe đạp, sơn màu đen, đã qua sử dụng, trên khung xe có dòng chữ “SON”, xe có giỏ bằng sắt màu đen là: 200.000 đồng; trị giá của 01 (một) chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Bảo Long - Lạng Sơn, màu xanh lá cây đã qua sử dụng, trên thân máy có dòng chữ JET - 100, máy có công suất 0,75KW là 350.000 đồng; trị giá 01 (một) chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Gia Bảo, màu xanh đã qua sử dụng, công suất 0,75 KW là 350.000 đồng; trị giá 01 (một) chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Thiên Long màu xám bạc đã qua sử dụng, công suất 1,75KW là: 800.000 đồng. Tổng giá trị là:

2.200.000 đồng”.

Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 02-7-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đã truy tố các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Trần Văn D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo V, H; áp dụng khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D; áp dụng Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với cả ba bị cáo: Xử phạt bị cáo V và bị cáo H mỗi bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, xử phạt bị cáo D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Do các bị hại đã nhận lại đủ tài sản và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét. Đề nghị truy thu số tiền 1.300.000 đồng là tiền các bị cáo V, H có được do phạm tội mà có để nộp ngân sách Nhà nước.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H, Trần Văn D đều khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đã truy tố và nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên; các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bản thân.

Tại phiên tòa, bị hại là chị Nguyễn Thị Ng trình bày vào ngày 06-5-2018 gia đình chị bị các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H trộm cắp chiếc máy bơm nước hiệu Thiên Long 1,75kw đúng như các bị cáo đã khai nhận. Nay gia đình chị đã được Cơ quan điều tra trả lại chiếc máy bơm nước nêu trên nên chị không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên, của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H, Trần Văn D tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, lời khai người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập.

[3] Hội đồng xét xử thấy đã có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 18 giờ ngày 06-5-2018, tại đội 11, xã N, huyện B, bị cáo Trần Duy Vvà bị cáo Nguyễn Ngọc H đã lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Thiên Long, trị giá 800.000 đồng của chị Nguyễn Thị Ng rồi mang đến bán cho Trần Văn D được 800.000 đồng. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, V và H đã lén lút trộm cắp 02 chiếc máy bơm nước (một chiếc nhãn hiệu JET-100 Bảo Long - Lạng Sơn, một chiếc nhãn hiệu Gia Bảo) có tổng trị giá 700.000 đồng của gia đình anh Trần Phú Đ ở đội 4, xã N, huyện B. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07-5-2018, V và H tiếp tục lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu LIFAN, BKS 35N1 – 5xxx có giá trị 500.000 đồng và 01 (một) chiếc xe đạp màu đen có giá trị 200.000 đồng của anh Trần Tr ở đội 10, xã N. Khi V và H trên đường mang các tài sản trộm cắp được đi tiêu thụ thì bị anh Chu Văn Th phát hiện, hô hoán. V, H để lại chiếc xe máy và chiếc xe đạp vừa trộm cắp được rồi bỏ chạy. Đến khoảng 05 giờ ngày 07-5-2018 V và H mang hai chiếc máy bơm trộm cắp được của gia đình anh Đ đến bán cho Trần Văn D được 500.000 đồng.

Trong vụ án này, Trần Duy V và Nguyễn Ngọc H đều đang có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, đều trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên đồng phạm với vai trò là người đồng thực hành về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Trần Văn D biết rõ 03 chiếc máy bơm nước là tài sản do V, H trộm cắp mà có nhưng vẫn mua để bán kiếm lời nên D phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây tâm lí hoang mang cho người dân trong việc quản lí tài sản, làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần phải xử lí nghiêm khắc, cách li cả ba bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Khi quyết định hình phạt xét cả ba bị cáo đều có nhân thân rất xấu, đều đã từng nhiều lần bị Tòa án kết án và bị cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính; bị cáo V và bị cáo H là những người đang có tiền án; bị cáo H còn đang có 02 tiền sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả ba bị cáo đều phạm tội 02 lần trở lên nên đều phải chịu một tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đều khai báo thành khẩn, vì vậy cả ba bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Hội đồng xét xử thấy giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt không lớn; toàn bộ tài sản đã được thu hồi trả lại cho các bị hại; bị cáo D đã nhiều tuổi, thường xuyên bị ốm đau, sức khỏe yếu, có xác nhận của chính quyền địa phương nên cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản và hoàn cảnh gia đình của các bị cáo thấy cả ba bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp và thu nhập; bị cáo V và bị cáo H là đối tượng nghiện ma túy; bị cáo D là người đã nhiều tuổi, thường xuyên bị ốm đau, sức khỏe yếu, do đó miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu LIFAN, BKS 35N1 – 5xxx và 01 chiếc xe đạp màu đen là tài sản hợp pháp của anh Trần Tr; 02 chiếc máy bơm nước công suất 0,75KW (một chiếc nhãn hiệu JET-100 Bảo Long - Lạng Sơn và một chiếc nhãn hiệu Gia Bảo) là tài sản hợp pháp của anh Trần Phú Đ và chị Trần Thị T; 01 chiếc máy bơm nước công suất 1,75KW, nhãn hiệu Thiên Long là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Ng, quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã trả lại các tài sản trên cho anh Tr, anh Đ, chị T, chị Ng là đúng quy định của pháp luật; sau khi nhận lại tài sản các bị hại không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đối với chiếc xe mô tô V và H đã sử dụng đi trộm cắp tài sản: Trần Duy V khai chiều 06-5-2018, V mượn xe của một người nghiện chất ma túy mới quen biết ở thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, nhưng V không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, đến trưa ngày 07-5-2018 V đã trả lại xe cho người này. Do vậy Cơ quan điều tra không tạm giữ được chiếc xe mô tô trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với số tiền 1.300.000 đồng do bán 03 chiếc máy bơm đã trộm cắp được, Trần Duy V và Nguyễn Ngọc H đều khai đã sử dụng toàn bộ số tiền trên để mua ma túy và cùng nhau sử dụng hết số ma túy đó nên Cơ quan điều tra không thu giữ được. Đây là tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có, vì vậy cần buộc V và H phải nộp vào ngân sách Nhà nước toàn bộ số tiền này, chia phần cụ thể V và H mỗi bị cáo phải nộp là 650.000 đồng.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H. Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Văn D. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án và Danh mục án phí, lệ phí Toà án:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Xử phạt bị cáo Trần Duy V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 08-5-2018.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 08-5-2018.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn D 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 09-5-2018.

2. Buộc các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H mỗi bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 650.000đ (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) là tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có.

3. Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Duy V, Nguyễn Ngọc H, Trần Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo và bị hại có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; các bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về