Bản án 29/2018/HSST ngày 10/10/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH HÀ -TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Vào hồi 14 giờ 15 phút, ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở- Toà án nhân dân huyện Thạch Hà mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2018/TLST-HS, ngày 28 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2018/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 9 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2018/QĐ-ST, ngày 28/9/2018 và Thông báo mở lại phiên tòa số: 01/2018/TB-TA, ngày 02/10/2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Hải Y, Sinh ngày 30/01/2002; Giới tính: Nữ. Tại xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam.

Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Hiện đang là học sinh lớp 10. Con ông Nguyễn Hải H, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1974. Hai ông bà hiện trú tại: thôn T, xã S, huyện H, Hà Tĩnh.

Anh, chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ ba trong gia đình.

Chồng, con: Chưa có.

*Tiền án, tiền sự: Không.

*Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt tại phiên tòa).

*Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thị Hải Y:

Có ông Nguyễn Hải H, sinh năm: 1972(bố đẻ của bị cáo) (Có mặt)

Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

*Người bào chữa bị cáo Nguyễn Thị Hải Y có Luật sư Trần Đình Lợi - Luật sư

Công ty luật Mai Sen thuộc Đoàn Luật sư Hà Tĩnh. (Có mặt)

2. Nguyễn Văn L, Sinh ngày 09/4/1974; Giới tính: Nam.

Tại xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lái xe.

Con ông Nguyễn Văn S(đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1940. Bà hiện trú tại: xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Anh, chị em ruột: Có 06 người, bị cáo là con thứ năm trong gia đình.

Vợ: Phan Thị H, sinh năm 1975.

Con: có 02 con(Lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2010)

*Tiền án, tiền sự: Không.

*Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt tại phiên tòa).

*Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn L có bà Trịnh Diệu Oanh- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

*Người bị hại:

Cháu Nguyễn Khánh L (đã chết)

*Đại diện hợp pháp của người bị hại:

Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1981(Bố đẻ); Nghề nghiệp: Lao động tự do. Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

(Ông Đường có Đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Cháu Nguyễn Thị Mai N, sinh năm 2009; Nghề nghiệp: Học sinh.

*Đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Thị Mai N:

Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1981(Là mẹ đẻ);

Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

(Bà H và cháu Mai N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt)

*Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Nguyễn Thị Mai N có ông Nguyễn Khánh Toàn- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

*Người làm chứng sinh năm: 1994:

1. Anh Lưu Tuấn D, (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Số 10A/273 Lê Đại H, phường Đ, Tp. PleiKu, tỉnh Gia Lai.

2. Anh Nguyễn Trí T, sinh năm: 1983 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện H, Hà Tĩnh.

*Đại diện Trường trung học phổ thông Mai Thúc Loan- huyện L:

Ông Lê Viết L, Chức vụ: Phó Hiệu trưởng (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 13/5/2018, Nguyễn Văn L, trú tại thôn N, xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 37A-157.36 đi từ xã H, huyện H về nhà mình theo đường quốc lộ 15B. Đi cùng xe ô tô lúc này với L có bốn người gồm: cháu Nguyễn Gia B và cháu Nguyễn Thiện T ngồi ở ghế phụ phía trước, anh Nguyễn Trí T và anh Lưu Tuấn D ngồi ở hàng ghế phía sau.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi qua cầu S thuộc địa phận xã S, huyện Thạch Hà với tốc độ khoảng 70 đến 80 km/h, Nguyễn Văn L nhìn thấy trên đường liên thôn phía trước, bên trái theo hướng di chuyển của mình có một người phụ nữ mặc áo khoác nắng điều khiển xe mô tô di chuyển theo hướng từ đường liên thôn ra đường 15B. Thấy vậy, Nguyễn Văn L đã ra tín hiệu còi để cảnh báo nhưng vẫn giữ nguyên tốc độ và tiếp tục di chuyển trên phần đường giành cho xe cơ giới. Lúc này, cháu Nguyễn Gia B và cháu Nguyễn Thiện N đứng dậy, đùa nghịch nhau trên xe ô tô nên L liền nhìn sang và giơ tay về bên phải và nói “Thiện N ngồi xuống”.

Cùng lúc này, Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 2002, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 38M1-200.81 (có dung tích xi lanh là 109,1 cm3), phía sau xe chở cháu Nguyễn Thị Khánh L và cháu Nguyễn Thị Mai N đều sinh năm 2009, di chuyển trên đường liên thôn từ thôn Đ, xã L đi ngang qua đường quốc lộ 15B để đi về thôn T, xã S, huyện Thạch Hà.

Khi Nguyễn Văn L nhắc nhở cháu Thiện N xong và quay lại nhìn về phía trước thì thấy xe mô tô biển kiểm soát 38M1-200.81 do Nguyễn Thị Hải Y điều khiển cách đầu xe ô tô do mình điều khiển khoảng 10 mét, đang đi từ trái sang phải theo chiều đi của xe ô tô, để đi ngang qua đường quốc lộ 15B. Thấy vậy, Nguyễn Văn L đánh lái sang phải, đồng thời đạp phanh chân để giảm tốc đ ộ nhưng do khoảng cách quá gần không kịp xử lý nên đầu xe ô tô đã đâm vào phía bên phải thân xe mô tô do cháu Y điều khiển làm xe mô tô và ba người ngồi trên xe ngã xuống đường quốc lộ 15B. Xe ô tô lao xuống ruộng lúa bên phải đường theo chiều đi. Hậu quả, cháu Nguyễn Khánh L bị tử vong, cháu Nguyễn Thị Mai N và Nguyễn Thị Hải Y bị thương phải đi bệnh viện cấp cứu, xe mô tô và xe ô tô bị hư hỏng một số bộ phận.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường lập lúc 11 giờ, ngày 13/5/2018 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Hà phản ánh:

Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn giao thông mặt đường rải nhựa bằng phẳng, rộng 11 mét. Đường được thiết kế là đường hai chiều, được phân định bằng vạch sơn kẻ đường, chia thành 02 chiều xe chạy. Đường được chia thành 04 làn đường trong đó có 02 làn đường dành cho xe cơ giới, mỗi làn rộng 3,5 mét và 02 làn đường dành cho xe thô sơ và người đi bộ, mỗi làn rộng 02 mét, lề đường rộng 0,4 mét.

Lấy chân cột mốc ký hiệu 3/18 tại mép đường bên trái đường Quốc lộ 15B hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A làm điểm mốc. Lấy mép đường nhựa phía bên phải của đường Quốc lộ 15B hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A làm chuẩn. Hiện trường được mô tả cụ thể như sau:

Từ điểm mốc đo theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A cách 08 mét là đến điểm đầu vết trượt lốp thứ nhất. Vết trượt lốp thứ nhất có ký hiệu số (1) trên sơ đồ hiện trường. Vết trượt lốp (1) nằm trên phần đường phía bên phải (bao gồm làn đường giành cho xe cơ giới, làn đường giành cho xe thô sơ và người đ i bộ và đường bờ kênh) đường Quốc lộ 15B theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A, có màu đen và mờ dần về cuối, có chiều hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A, có kích thước (29,4 x 0,11) mét. Từ điểm đầu vết trượt lốp (1) đo vào mép đường chuẩn là 3,2 mét; điểm cuối vết trượt lốp (1) trùng với mép lề đường bờ kênh phía bên phải đường Quốc lộ 15B hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A và cách mép đường chuẩn là 3,5 mét.

Từ điểm đầu vết trượt lốp (1) đo khoảng cách theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 4,5 mét là đến điểm đầu vết trượt lốp thứ hai. Vết trượt lốp thứ hai có ký hiệu số (2) trên sơ đồ hiện trường. Vết trượt lốp (2) nằm trên phần đường phía bên phải (bao gồm: làn đường dành cho xe cơ giới, làn đường dành cho xe thô sơ và người đi bộ và đường bờ kênh phía bên phải) đường Quốc lộ 15B theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A, có màu trắng đen và mờ dần về phía cuối, có chiều hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A, kích thước (25,7 x 0,11) mét. Từ điểm đầu vết trượt lốp (2) đo vào mép đường chuẩn là 04 mét, điểm cuối vết trượt lốp (2) trùng với mép lề đường bờ kênh phía bên phải đường Quốc lộ 15B theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A và cách mép đường chuẩn là 2,2 mét.

Từ điểm đầu vết trượt lốp (2) đo khoảng cách theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 8,3 mét là đến điểm đầu của vết cày xước trên mặt đường. Vết cày xước trên mặt đường được ký hiệu số (3) trên sơ đồ hiện trường. Vết cày xước (3) nằm trên cả hai làn đường dành cho xe cơ giới của đường Quốc lộ 15B có dạng đường cong, đứt quãng, có kích thước (34,9 x 0,02) mét. Từ điểm đầu vết cày xước (3) đo vào mép đường chuẩn là 4,8 mét; điểm cuối vết cày xước (3) trùng với bàn để chân người điều khiển phía bên trái của xe mô tô 38M1-200.81, cách mép đường chuẩn là 7,5 mét.

Từ điểm đầu vết cày xước (3) đo khoảng cách theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 5,4 mét là đến tâm vết máu thứ nhất. Vết máu thứ nhất được ký hiệu số (4) trên sơ đồ hiện trường. Vết máu (4) nằm trên làn đường dành cho xe cơ giới phía bên phải chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A; không rõ hình, có màu đỏ thẫm, có kích thước (0,25 x 0,2) mét; từ tâm vết máu (4) đo vào mép đường chuẩn là 2,4 mét.

Từ tâm vết máu (4) đo khoảng cách theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 08 mét là đến tâm vùng mảnh vỡ. Vùng mảnh vỡ được ký hiệu số (5) trên sơ đồ hiện trường. Vùng mảnh vỡ (5) nằm rải rác trên toàn bộ mặt đường Quốc lộ 15B, có kích thước (13 x 11) mét; từ tâm vùng mảnh vỡ (5) đo vào mép đường chuẩn là 07 mét.

Từ tâm vùng mảnh vỡ (5) đo khoảng cách theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 3,3 mét là đến tâm vết máu thứ hai. Vết máu thứ hai được ký hiệu số (6) trên sơ đồ hiện trường. Vết máu (6) nằm trên làn đường dành cho xe thô sơ và người đi bộ phía bên phải chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A, không rõ hình, có màu đỏ thẫm, kích thước (0,27 x 0,12) mét. Từ tâm vết máu (6) đo vào mép đường chuẩn là 01 mét.

Từ tâm vết máu (6) đo theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 17,6 mét là đến tâm trục bánh sau xe mô tô biển kiểm soát 38M1-200.81 được ký hiệu số (7) trên sơ đồ hiện trường. Xe mô tô (7) ngã nghiêng sang trái, nằm trên làn đường dành cho xe cơ giới phía bên trái hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A; đầu xe hướng mép đường chuẩn; đuôi xe hướng giáo xứ Lộc Thủy. Từ tâm trục bánh sau xe môtô (7) đo vào mép đường chuẩn là 8,2 mét; từ tâm trục bánh trước xe môtô (7) đo vào mép đường chuẩn là 07 mét.

Từ tâm trục bánh trước xe môtô (7) đo khoảng cách theo chiều đi từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A 0,3 mét là đến tâm trục bánh sau, bên lái xe ô tô mang biển kiểm soát 37A-157.36. Xe ô tô mang biển kiểm soát 37A-157.36 được ký hiệu số (8) trên sơ đồ hiện trường. Xe ô tô (8) nằm dưới ruộng lúa phía bên phải đường Quốc lộ 15B hướng từ huyện L đến đường Quốc lộ 1A, đầu xe hướng về đường Quốc lộ 1A, đuôi xe hướng về huyện L; từ tâm trục bánh sau bên lái xe ô tô (8) đo vào mép đường chuẩn là 9,8 mét; từ tâm trục bánh trước, bên lái xe ô tô (8) đo vào mép đường chuẩn là 11,2 mét.

Tại biên bản khám nghiệm xe ô tô 37A- 157.36 do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Hà tiến hành lúc 14 giờ 30 phút, ngày 16/5/2018 phán ánh :

Tại góc bên lái phía trước bị móp méo, biến dạng kích thước (110 x 52) cm. Tâm vùng móp méo, biến dạng cách mặt đất 75cm; Cụm đèn chiếu sáng và đèn tín hiệu phía trước bên lái vỡ hoàn toàn; Mặt gương chiếu hậu bên lái bị vỡ; Toàn bộ kính chắn gió phía trước bị nứt vỡ, nửa bên trái bị nứt vỡ lõm vào trong; Cánh cửa trước bên lái bị móp, méo, kính chắn gió bị vỡ; Ba đờ xốc trước bị gãy vỡ; Két nước làm mát bị móp méo; Bánh trước bên phụ không còn hơi; Sau khi tai nạn xảy ra hệ thống điều khiển, hệ thống hãm, đèn, lốp, gương, kính, gạt nước không còn tác dụng. Xe ô tô BKS: 37A – 157.36 không còn hoạt động được.

Tại biên bản khám nghiệm xe mô tô 38M1 - 200.81 do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Hà tiến hành lúc 15 giờ 20 phút, ngày 16/5/2018 phán ánh:

Toàn bộ cụm đèn chiếu sáng, đén tín hiệu bị gãy, vỡ hoàn toàn; Tay lái bên trái bị cong, gâp từ trước ra sau; Toàn bộ ướm xe bị vỡ nát; Phần khung xe ở giữa (phía trên máy) bị cong, vênh từ phải sang trái; Cả bộ chế bị gãy rời; Cần khởi động bị gãy rời khỏi xe; Giá để chân bên trái của người ngồi trước bị cong, gập về phía sau. Toàn bộ hệ thống điều khiển (lái), hệ thống hãm, đèn, còi, lốp, gương không còn tác dụng. Xe bị hư hỏng không còn hoạt động được .

Tại biên bản khám nghiệm tử thi Nguyễn Thị Khánh L thực hiện lúc 12 giờ 35 phút ngày 13/5/2018 do cơ quan C ảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Hà tiến hành và kết luận giám định pháp y số 256/GĐ-PY, ngày 15/5/2018 của Bệnh viện đa khoa huyện Thạch Hà phản ánh:

Vùng trán sưng nề kích thước (4x6) cm; Chảy máu tai trái, chảy máu mũi, máu miệng; Vùng cổ, vai phải sưng nề bầm tím; gãy xương đòn phải; Mặt ngoài cánh tay phải có vết thương rách da, kích thước (10 x 02) cm; Bụng chướng, có dịch tự do ở bụng; Vùng hố thắt lưng trái có vết thương bầm tím, kích thước (8 x10) cm; Mặt trong cánh tay trái có vết thương xây xát da, kích thước (6 x 10)cm; Vùng cổ chân phải có vết thương rách da kích thước (12x 2,5) cm; vỡ xương gót, xương cổ chân phải. Xác định nguyên nhân chết: do chấn thương sọ não, đa chấn thương nặng Tại bản kết L giám định số 64/PC54- GĐCH, ngày 25/5/2018 của Phòng kỹthuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận về va chạm giữa 2 phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông: 

Góc bên trái (bên lái) đầu xe ô tô BKS 37A-157.36 va chạm với phần khung (phía trên lốc máy) xe mô tô BKS 38M1- 200.81. Đầu xe ô tô BKS 37A-157.36 và xe mô tô BKS 38M1- 200.81 va chạm gần như vuông góc với nhau. Xe ô tô BKS

37A-157.36 đâm vào xe mô tô BKS 38M1- 200.81.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 02/8/2018 của Hội đồng đ ịnh giá tài sản kết luận: Thiệt hại về tài sản bị hư hỏng đối với xe ôtô 37A- 157.36 là 19.716.000 đồng và xe môtô 38M1- 200.81 là 4.833.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại của cả 02 xe là 24.549.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 38M1- 200.81 và 01 xe ô tô biển kiểm soát 37A- 157.36 cùng các giấy tờ liên quan và 01 giấy phép lái xe ô tô mang tên Nguyễn Văn L. Đến ngày 08/8/2018 xét thấy không ảnh hưởng đến công tác điều tra, truy tố, xét xử nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Hà đã trả lại hai chiếc xe nói trên cho chủ sở hữu. Giấy phép lái xe ô tô hạng B2, số 010157044471 mang tên Nguyễn Văn L do Sở giao thông vận tải Hà Nội cấp ngày 25/6/2015 chuyển theo hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 30/CT-VKSTH, ngày 27/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hải Y về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS; bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân các bị cáo và đề nghị HĐXX xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65; Điều 91 và Điều 101 BLHS xử phạt Nguyễn Thị Hải Y mức án từ 20 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 40 đến 48 tháng. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 BLHS xử phạt Nguyễn Văn L mức án từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Nguyễn Văn L.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm nên miễn xét. Về án phí: Bị cáo L có đơn xin miễn án phí với lý do bị cáo thuộc diện hộ nghèo vì vậy đề nghị HĐXX căn cứ quy định của pháp luật miễn án phí cho bị cáo L, bị cáo Y phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Luật sư Trần Đình Lợi người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hải Y phát biểu bài bào chữa với nội dung: Luật sư không đồng tình với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát đối với hành vi không nhường đường cho phương tiện lưu thông trên đường ưu tiên của bị cáo Y bởi các lý do sau: Bị cáo Y đã đi đúng làn đường, trước khi sang đường đã quan sát trước sau, hồ sơ dấu vết hiện trường vụ án thể hiện bị cáo đã đi qua gần hết đường. Vì thế bị cáo Y không hề có lỗi trong trường hợp này, có chăng chỉ là lỗi không có giấy phép lái xe theo quy định nhưng đây chỉ là lỗi hành chính theo quy định tại khoản 9 Điều 8, khoản 3 Điều 24 Luật giao thông đường bộ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Y vô tội và chỉ xử phạt hành chính đối với bị cáo.

Trợ giúp viên pháp lý Trịnh Diệu Oanh gửi bài bài bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn L với nội dung: Sau khi phạm tội bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm của mình nên thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại, đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình có bố mẹ được nhà nước tặng thưởng Huân Huy chương kháng chiến, bản thân từ trước đến nay chưa có tiền án, tiền sự, gia đình thuộc hộ nghèo, các con còn nhỏ dại. Vì vậy ,đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L ở mức thấp nhất có thể và đề nghị không cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Về hình phạt bổ sung đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn lại là lao động chính và trả lại cho bị cáo giấy phép lái xe hiện đang bị tạm giữ. Về án phí: Đề nghị HĐXX miễn án phí hình sự cho bị cáo vì bị cáo thuộc diện hộ nghèo.

Trợ giúp viên pháp lý Nguyễn Khánh Toàn người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cháu Nguyễn Thị Mai N trình bày: Tại phiên tòa hôm nay tuy người có quyền lợi liên quan cháu Nguyễn Thị Mai N và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt họ nhưng họ đã có ý kiến bằng văn bản đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và không có yêu cầu gì thêm. Vì thế Trợ giúp viên cũng không có ý kiến gì tranh luận thêm chỉ đề nghị HĐXX xem xét điều kiện hoàn cảnh của các bị cáo mà cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất có thể và không cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội. Đối với quan điểm giải quyết vụ án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa thì Trợ giúp viên hoàn toàn đồng tình và không tranh luận gì thêm.

Tại phiên tòa ông Lê Viết L đại diện lãnh đạo Trường trung học phổ thông Mai Thúc Loan trình bày: Nguyễn Thị Hải Y ở trường là một học sinh chăm ngoan, có thành tích học tập vào loại khá giỏi, có phẩm chất đạo đức tư cách tốt và luôn có ý thức trong hoạt động phong trào của nhà trường. Em Y không may vi phạm pháp luật, vì thế đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, tạo điều kiện giúp đỡ để em có thế tiếp tục việc học tập của mình.

Bị cáo Y nói lời sau cùng: Kính thưa HĐXX bị cáo rất ám ảnh, ân hận về sự việc đã xẩy ra, mong muốn của bị cáo là tiếp tục được đi học, vì vậy đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo một cơ hội để bị cáo có thể tiếp tục được đến trường.

Bị cáo L nói lời sau cùng: Kính thưa HĐXX bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, mong HĐXX xem xét cho hoàn cảnh của gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo lại là lao động chính trong gia đình, vì vậy xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra, truy tố bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thị Hải Y và Nguyễn Văn L, Hội đồng xét xử nhận thấy tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay các bị cáo khai nhận: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13/5/2018, tại Km18+300 Quốc lộ 15B thuộc địa phận thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Văn L, điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 37A -157.36 đi từ xã H về xã L đã gây tai nạn với xe mô tô biển kiểm soát 38M1- 200.81 do Nguyễn Thị Hải Y (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển đi qua đường, phía sau xe chở cháu Nguyễn Khánh L và cháu Nguyễn Thị Mai N. Hậu quả, làm cháu Nguyễn Thị Khánh L bị tử vong, Nguyễn Thị Hải Y và Nguyễn Thị Mai N bị thương.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi, phù hợp với thời gian, không gian, địa điểm nơi xẩy ra vụ án.

Bị cáo Nguyễn Thị Hải Y điều khiển xe mô tô tham gia giao thông trên đường nhưng không tuân thủ quy định của Luật giao thông đường bộ, đi qua ngã tư giao nhau với đường ưu tiên nhưng bị cáo lại thiếu chú ý quan sát không nhường đường cho các phương tiện lưu thông trên đường ưu tiên, điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh trên 50cm3 chở người nhưng không có giấy phép lái xe theo quy định là vi phạm khoản 9 Điều 8; khoản 3 Điều 24 của Luật giao thông đường bộ. Còn đối với bị cáo Nguyễn Văn L điều khiển xe ô tô tham gia giao thông trên đường nhưng không chấp hành biển chỉ dẫn cảnh báo nguy hiểm, không giảm tốc độ khi phát hiện thấy chướng ngại vật khi đi qua ngã tư giao nhau với đường không ưu tiên là vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ; khoản 2 Điều 5 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT, ngày 31/12/2015 của Bộ Giao thông Vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ. Chính vì vậy hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Hải Y đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS; Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Điều đó, khẳng định quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà đối với các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật, không oan sai.

[3]. Xem xét tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy rằng hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị Hải Y và Nguyễn Văn L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn công cộng, gây thiệt hại đến tính mạng sức khỏe của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông là do các bị cáo không chấp hành Luật giao thông đường bộ, điều khiển xe ô tô, mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ khi tham gia giao thông nhưng không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ, không nhường đường cho xe đang lưu thông trên đường ưu tiên, không chấp hành biển chỉ dẫn cảnh báo, không có giấy phép lái xe theo quy định dẫn đến gây hậu quả làm chết người và thiệt hại về tài sản.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Hải Y Hội đồng xét xử xét thấy rằng, tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã tích cực tác động cùng gia đình thăm viếng, động viên để bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại, nhưng vì có quan hệ họ hàng nên gia đình bị hại không nhận và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hơn nữa, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện một phần là do nhận thức pháp luật còn hạn chế, bởi tính đến thời điểm mà bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo mới chỉ 16 tuổi 03 tháng 13 ngày, bản thân đang là học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Mai Thúc Loan, gia đình luôn chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhân thân tốt từ trước đến nay không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định rõ ràng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cũng cần tạo cho bị cáo một cơ hội để bị cáo có điều kiện khắc phục, sửa chữa sai lầm và tiếp tục việc học tập, xét thấy chưa cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho được cải tạo, giáo dục tại địa phương.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn L, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, đã được đào tạo qua trường lớp và có đủ điều kiện để được cấp bằng lái xe hạng B2, tuy nhiên vào ngày 13/5/2018 khi điều khiển xe ô tô lưu thông trên đường do lỗi chủ quan, vô ý không quan sát biển chỉ dẫn cảnh báo, không làm chủ tốc độ, dẫn đến gây tai nạn. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường đầy đủ cho gia đình người bị hại, đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, gia đình có bố, mẹ có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân Huy Chương, bản thân từ trước đến nay chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định rõ ràng. Xét thấy chưa cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo , giáo dục tại địa phương cũng đủ nghiêm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo Nguyễn Thị Hải Y hiện đang là học sinh nên không áp dụng hình phạt bổ sung. Còn bị cáo Nguyễn Văn L đang hành nghề lái xe ô tô, do vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung (cấm hành nghề) là phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 260 BLHS. Bị cáo bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề lái xe nên tạm giữ Giấy phép lái xe hiện đang được bảo quản cùng hồ sơ vụ án cho đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung.

[5].Về xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Y có các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tác động với gia đình để bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại, đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo phạm tội là người dưới 18 tuổi. Bị cáo L có các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, gia đình có bố mẹ được Nhà nước tặng thưởng Huân Huy chương kháng chiến hạng nhất. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[6].Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xẩy ra cháu Nguyễn Thị Khánh L tử vong, còn cháu Nguyễn Thị Mai N và Nguyễn Thị Hải Y đã có đơn từ chối giám định sức khỏe, do đó không có căn cứ để xác định tỷ lệ tổn hại về sức khỏe của những người này. Trong quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Văn L đã bồi thường cho ông Nguyễn Văn Đ đại diện hợp pháp của bị hại cháu Nguyễn Thị Khánh L số tiền là 90.000.000đ; bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền 44.000.000đ đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Thị Mai N, hỗ trợ cho Nguyễn Thị Hải Y số tiền 10.000.000đ. Tổng cộng số tiền mà bị cáo L đã bồi thường là 144.000.000đ.

Tại phiên tòa đại diện bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự nên miễn xét. Về phần hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo ở mức thấp nhất có thể.

[7].Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38M1- 200.81 cho ông Nguyễn Hải H; trả lại xe ô tô biển kiểm soát 37A- 157.36 cho Nguyễn Văn L là các chủ sở hữu hợp pháp. Việc trả lại các vật chứng này của Cơ quan điều tra là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, tại phiên tòa ông Nguyễn Hải H và Nguyễn Văn L không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX miễn xét.

[8]. Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo L có đơn xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm, với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn là hộ nghèo. Hội đồng xét xử xét thấy rằng căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Giấy xác nhận hộ nghèo, cận nghèo số 73/GCN-HN.HCN, ngày24/7/2017 của Uỷ ban nhân dân xã L, huyện Thạch Hà thì bị cáo L thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định, vì vậy miễn án phí hình sự cho bị cáo. Còn bị cáo Y phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Liên quan trong vụ án này còn có ông Nguyễn Hải H, bố đẻ của bị cáo Y đồng thời chủ xe môtô biển kiểm soát 38M1-200.81đây là xe mô tô mà bị cáo đã sử dụng để xẩy ra tai nạn. Tuy nhiên, khi để xe ở nhà thì Y đã tự ý lấy đi, việc Y lấy xe đi ông H hoàn toàn không biết nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông H.

Xét đề nghị của Luật sư Trần Đình Lợi người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hải Y tại phiên tòa về việc đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo vô tội và chỉ xử phạt hành chính đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy rằng căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì không có căn cứ để chấp nhận đề nghị của Luật sư.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1].Về hình phạt chính: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Hải Y và Nguyễn

Văn L phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

*Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65; Điều 91 và Điều 101 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hải Y 18 (Mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Hải Y cho UBND xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

*Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 16 (Mười sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 32 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho UBND xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

[2].Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào Điều 41; khoản 5 Điều 260 BLHS: Cấm Nguyễn Văn L hành nghề lái xe ô tô trong thời gian 12 tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tạm giữ của bị cáo Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn L hạng B2, có số sê ri: 010157044471 do Sở giao thông vận tải thành phố Hà Nội cấp ngày 25/6/2015, cho đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung. 

[3]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm đ, khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn L, buộc bị cáo Nguyễn Thị Hải Y phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo bản án : Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đối với đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HSST ngày 10/10/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:29/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về