Bản án 291/2021/HC-PT ngày 19/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 291/2021/HC-PT NGÀY 19/05/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VÀ HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

Trong ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 563/2020/TLPT-HC ngày 27 tháng 10 năm 2020, về việc “Khiếu kiện quyết định hành và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 17/2020/HC-ST ngày 27/08/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 785/2021/QĐ-PT ngày 22 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Lò Văn T (Vắng mặt), ông La Văn T1 (Có mặt);

cùng địa chỉ: Buôn K62, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: ông Đặng Quốc A, địa chỉ: Ấp Q, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai – Văn bản ủy quyền ngày 25/3/2020 (Có mặt).

2.Người bị kiện:

2.1. Uỷ ban nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Nông.

2.2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Nông.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Trần Đăng Ánh – Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện huyện K, tỉnh Đắk Nông - Văn bản ủy quyền số 41/GUQ-UBND, ngày 04-6-2020 (Xin xử vắng mặt).

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Ông Nguyễn Chung Huy – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện K, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt).

Ông Nguyễn Văn Rĩnh – Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt).

Ông Phạm Thế Khanh – Chuyên viên Ban quản lý dự án và phát triển quỹ đất huyện K, tỉnh Đắk Nông (Có mặt).

Người kháng cáo: Ông Lò Văn T, ông La Văn T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10-3-2020 và đơn khởi kiện (sửa đổi, bổ sung các ngày 26-3-2020, 20/4/2020) của người khởi kiện ông Lò Văn T, ông La Văn T1 và quá trình giải quyết vụ án người khởi kiện trình ày:

Ông Lò Văn T, ông La Văn T1 cùng đồng khai phá, quản lý và sử dụng ổn định thửa đất số 10, tờ bản đồ số 02 tại xã Đ, huyện K từ năm 1992. Khi công trình thủy lợi Đ đi vào sử dụng đã làm ngập úng diện tích 10.399m2 và làm chết 211 cây cà ri. Ông T1 và Ông T đã làm đơn yêu cầu UBND huyện K kiểm kê diện tích đất bị ngập và thiệt hại về hoa màu, tài sản gắn liền với đất để bồi thường nhưng UBND huyện K không chấp nhận. Ngày 02/8/2018, UBND huyện K ban hành văn bản số 1448/UBND-TNMT với nội dung: Do đất của Ông T1, Ông T có nguồn gốc lấn chiếm của Công ty Đông Bắc và hiện nay đất đã bị ngập, không có cơ sở để xác định được thiệt hại về tài sản và cây trồng trên đất nên không có cơ sở để bồi thường, hỗ trợ cho hai ông.

Ông T1, Ông T không đồng ý với cách giải quyết trên nên hai ông khởi kiện đề nghị Tòa án hủy văn bản số 1448/UBND-TNMT ngày 02/8/2018 của UBND huyện K và buộc UBND huyện K khắc phục hành vi vi phạm hành chính giải quyết dứt điểm việc đền bù trong thực hiện dự án lòng hồ thủy lợi Đ cho hai ông.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện, ông Trần Đăng Ánh trình ày: Trên cơ sở kết quả xác minh, giải quyết đơn kiến nghị của Thân, Ông T thì diện tích đất của hai ông đề nghị bồi thường hỗ trợ không đủ điều kiện được bồi thường hỗ trợ theo quy định tại Điều 75 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 26 Quyết định số 07/2015/QĐ-UBND ngày 29/01/2015 của UBND tỉnh Đắk Nông. Lý do: phần diện tích đất Ông T có nguồn gốc lấn chiếm của Công ty Đông Bắc (diện tích đất trên đã được UBND tỉnh Đắk Lắk (cũ) giao cho Công ty Đông Bắc tại Quyết định số 1557/QĐ-UB ngày 26/6/1999. Phần diện tích đất của Ông T1 có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của Ông T và nằm trong diện tích mà Ông T lấn chiếm của Công ty Đông Bắc. Về cây trồng: tại thời điểm có đơn kiến nghị, qua kiểm tra, xác minh thì diện tích đất trên đã bị ngập nên không có cơ sở để xác định được thiệt hại về tài sản và cây trồng trên đất.

Từ thời điểm diện tích đất của các hộ Ông T1, Ông T bị ngập năm 2011 đến nay (hộ Ông T là 07 năm và hộ Ông T1 là 03 năm), các hộ không có khai báo về thiệt hại với cơ quan nhà nước đến nay mới có đơn kiến nghị là quá thời hiệu khiếu nại được quy định tại khoản 6 Điều 11 Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11/11/2011. Do đó, kiến nghị của Ông T1, Ông T về việc bồi thường, hỗ trợ đất đai, cây trồng bị ảnh hưởng bởi công trình thủy lợi Đ là không có cơ sở để xem xét, giải quyết.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 17/2020/HC-ST ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Điều 75 Luật đất đai năm 2013, khoản 1 Điều 32 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông La Văn T1 và ông Lò Văn T về việc tuyên hủy văn bản số 1448/UBND-TNMT ngày 02/8/2018 của UBND huyện K và buộc UBND huyện K khắc phục hành vi vi phạm hành chính giải quyết dứt điểm việc đền bù trong thực hiện dự án lòng hồ thủy lợi Đ đối với ông La Văn T1 và ông Lò Văn T.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/9/2020 ông Lò Văn T và ông La Văn T1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa án theo hướng chấp nhận yêu cầu hủy Văn bản số 1448/UBND-TNMT ngày 02/8/2018 của UBND huyện K và buộc UBND huyện K đền bù cho ông La Văn T1 và ông Lò Văn T, vì đất này Ông T và Ông T1 sử dụng từ năm 1992 đến nay, trên đất canh tác trồng hoa màu là có thật.

Người bảo vệ quyền lợi cho UBND huyện K trình bày phần diện tích đất của Ông T1 có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của Ông T và nằm trong diện tích mà Ông T lấn chiếm của Công ty Đông Bắc, trên đất không trồng hoa màu nên không có căn cứ để bồi thường. Hơn nữa, trước đây địa phương đã thông báo nếu ai bị thiệt hại về tài sản, cây trồng phải có bản liệt kê thiệt hại để địa phương xem xét nhưng Ông T và Ông T1 không kê khai thiệt hại nên không có căn cứ bồi thường. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Về thủ tục tố tụng, người tiến hành tố tụng, các đương sự tuân thủ đúng quy định của Luật tố tụng hành chính. Về nội dung vụ án, khi công trình thủy lợi Đ đi vào sử dụng, nước đập dâng lên làm ngập diện tích của một số hộ xung quanh bờ hồ, địa phương có thông báo cho người dân kê khai thiệt hại để có căn cứ bồi thường; Ông T và Ông T1 không kê khai thiệt hại, khi khởi kiện không cung cấp được chứng cứ bị thiệt hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo của Ông T và Ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì thấy:

Đơn kháng cáo của ông Lò Văn T và ông La Văn T1 đúng theo quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1]. Theo đơn khởi kiện của Ông T và Ông T1, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ hành chính về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” là đúng quan hệ tranh chấp; đối tượng bị kiện là Văn bản số 1448/UBND-TNMT ngày 02/8/2018 của UBND huyện K và yêu cầu UBND huyện K thực hiện nhiệm vụ công vụ theo quy định của pháp luật nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông và thời hiệu khởi kiện vẫn còn là đúng theo quy định tại khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của Ông T và Ông T1:

[2.1]. Diện tích đất tại thửa đất số 10, tờ bản đồ số 02 tại xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông được UBND tỉnh Đắk Lắk (cũ) giao cho Công ty Đông Bắc tại Quyết định số 1557/QĐ-UB ngày 26/6/1999 quản lý, sử dụng trồng rừng.

[2.2]. Ông T và Ông T1 cho rằng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 02 tại xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông là do hai ông khai hoang năm 1992, tuy nhiên hai ông không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Từ năm 1992 đến nay, hai ông cũng không kê khai, đăng ký về việc sử dụng diện tích đất này.

[2.3]. Năm 2011, công trình thủy lợi Đ đi vào sử dụng, nước đập dâng lên làm ngập diện tích của một số hộ xung quanh bờ hồ, trong đó có một phần diện tích đất của Ông T1, Ông T đang canh tác. Thời điểm này, cơ quan có thẩm quyền thông báo cho người dân kê khai thiệt hại làm căn cứ xác định bồi thường, hỗ trợ nhưng Ông T1, Ông T cho rằng đất bị ngập ít nên không kê khai. Ông T và Ông T1 cho rằng năm 2015 xảy ra ngập úng gây thiệt hại nhiều nhưng đến nay Ông T và Ông T1 cũng không cung cấp được chứng cứ thể hiện bị thiệt hại về cây trồng, tài sản nên không có căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của Ông T và Ông T1 là phù hợp.

[3]. Đối với diện tích đất Ông T và Ông T1 đang canh tác, nếu có căn cứ chứng minh quyền sử dụng, Ông T và Ông T1 được quyền khởi kiện bằng một vụ kiện khác theo quy định của pháp luật để xác định chủ sử dụng đất. Đến nay chưa có căn cứ thể hiện Ông T và Ông T1 là chủ sử dụng đất nên việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do không sử dụng được đất canh tác, trồng trọt là chưa đủ căn cứ để giải quyết.

[4]. Từ những căn cứ trên, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông T và Ông T1 là có căn cứ. Ông T và Ông T1 kháng cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh. Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, bác đơn kháng cáo của Ông T và Ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ông T và Ông T1 phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lò Văn T và ông La Văn T1;

giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số: 17/2020/HC-ST ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Căn cứ khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 32, khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lò Văn T và ông La Văn T1 về việc yêu cầu hủy Văn bản số 1448/UBND-TNMT ngày 02/8/2018 của UBND huyện K và buộc UBND huyện K khắc phục hành vi vi phạm hành chính giải quyết dứt điểm việc đền bù trong thực hiện dự án lòng hồ thủy lợi Đ đối với ông Lò Văn T và ông La Văn T1.

Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Lò Văn T và ông La Văn T1 mỗi người phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 0001035 ngày 28/4/2020, 0001027 ngày 27/4/2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông nên Lò Văn T và ông La Văn T1 đã nộp đủ án phí.

2. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Lò Văn T và ông La Văn T1 mỗi người nộp 300.000 đồng; khấu trừ 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001094, 0001093 ngày 21/9/2020 nên ông Lò Văn T và ông La Văn T1 đã nộp đủ án phí.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 291/2021/HC-PT ngày 19/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai

Số hiệu:291/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về