TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 291/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:299/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 274/2020/QĐXXST-HS ngày 14.12.2020 đối với bị cáo:
Lê Văn T (tên gọi khác: T mồ côi), sinh năm 1984 tại Đồng Nai; Cư trú: Thôn 8A, xã A, huyện B, tỉnh D; Nghề nghiệp: thợ cơ khí; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn M (chết) và bà Nguyễn Thị M1 (chết); Vợ: Đỗ Thị Ngọc Đ, sinh năm 1991, có 02 con lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án: Ngày 25/4/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 03 tháng 25 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”, được trả tự do ngay tại phiên Tòa; Ngày 22/6/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 27/4/2019; Tiền sự: Không; Bị bắt theo lệnh truy nã và bị giam giữ từ ngày 31/8/2020 đến nay. (Có mặt)
- Bị hại: Anh Phan Văn H, sinh năm 1989; Cư trú: Ấp Thanh Hóa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
- Người làm chứng:
1. Trần Thị T, sinh năm 1972. (vắng mặt)
2. Trần Thị D1, sinh năm 1991. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D1 vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn T là đối tượng có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Vào khoảng 11 giờ 55 phút ngày 16/3/2020, Lê Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sanda Boss biển số 60K8-9836 đi từ phòng trọ ở ấp An Chu, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom đến khu nhà trọ của bà Đỗ Thị T ở ấp Thanh Hóa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom để tìm vợ là chị Đỗ Thị Ngọc Đ (đang sống ly thân). Khi đến nơi, T dừng xe mô tô ở ngoài cổng và đi bộ vào dãy nhà trọ tìm chị Đ thì thấy cửa phòng trọ số 17 của anh Phan Văn H mở cửa nhưng không có ai ở trong phòng (anh H đang đi ra ngoài mua nước uống), nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong phòng trọ của anh H. Sau đó T lén lút đi vào phòng trọ của anh H trộm cắp 01 điện thoại di động Samsung A30S (A307) để trên giường rồi lên xe tẩu thoát. Trên đường đi, T kiểm tra thấy điện thoại anh H có cài mật khẩu không sử dụng được nên đến cửa hàng sửa chữa điện thoại “Hoàng Vũ” gặp chị Trần Thị D1, T nói với chị D1 là điện thoại của T do quên mật khẩu nên nhờ chị D1 mở mật khẩu, chị D1 đồng ý và hẹn T đến chiều cùng ngày quay lại lấy điện thoại. Phát hiện mất điện thoại, anh H thông báo cho bà T và nhờ bà T trích xuất Camera tại dãy nhà trọ. Sau khi mở được mật khẩu điện thoại chị D1 gọi điện vào số điện thoại người quen anh H và biết được điện thoại anh H bị mất trộm nên chị D1 giữ lại điện thoại của anh H.
Đến 14 giờ 29 phút cùng ngày T đến tiệm sửa chữa điện thoại “Hoàng Vũ” để lấy điện thoại thì bị bà T tri hô quần chúng nhân dân giữ lại và báo cho công xã Hố Nai 3 đến làm việc và lập biên bản thu giữ 01 điện thoại di động Samsung A30S (A307), 01 xe mô tô nhãn hiệu Sanda Boss biển số 60K8-9836, 01 điện thoại di động LG V10.
Tại Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom kết luận: 01 điện thoại di động Samsung A30S (A307) trị giá: 4.800.000 đồng (Bốn triệu tám trăm nghìn đồng).
Đối với 01 điện thoại di động LG V10 là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản thu giữ này cho bị cáo.
Về vật chứng :
- Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Phan Văn H 01 điện thoại di động Samsung A30S (A307).
- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sanda Boss biển số 60K8-9836 bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản bị cáo tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân với chị Đỗ Thị Ngọc Đ, nhưng hiện nay chị Đ đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa làm việc được với chị Đ, Cơ quan cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.
Về trách nhiệm dân sự: anh Phan Văn H đã nhận lại tài sản nên anh H không có yêu cầu về phần dân sự trong vụ án này.
Tại bản cáo trạng số 253/CT/VKS-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự).
Tại phiên tòa, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù;
2. Về án phí: Buộc các bị cáo chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội D1 vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 16/3/2020, tại phòng số 17, khu nhà trọ của bà Đỗ Thị T thuộc ấp Thanh Hóa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Lê Văn T (tên gọi khác: T mồ côi) đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung A30S (A307) của anh Phan Văn H trị giá 4.800.000 đồng (Bốn triệu tám trăm nghìn đồng) với lỗi cố ý trực tiếp; Mặt khác, ngày 25/4/2017 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 03 tháng 25 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” và ngày 22/6/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến nay chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh Phan Văn H được pháp luật công nhận và bảo vệ.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu; Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Phan Văn H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
1.1 Tuyên bố bị cáo Lê Văn T (tên gọi khác: T mồ côi) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1.2 Xử phạt bị cáo Lê Văn T (tên gọi khác: T mồ côi) 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2020.
2. Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 291/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 291/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về