Bản án 290/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 290/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 210/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lê Đức S, sinh năm 1963

Địa chỉ: phố Đ, thị trấn B, huyện H, tỉnh Thanh Hoá.

Bị đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1970

Địa chỉ: phố Đ, thị trấn B, huyện H, tỉnh Thanh Hoá.

Ti phiên tòa có vắng mặt cả hai bên đương sự, nguyên đơn anh Lê Đức S có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn chị Hoàng Thị T vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/7/2019, bản tự khai ngày 05/8/2019 của nguyên đơn anh Lê Đức S thể hiện:

Về hôn nhân: Tôi và cô T tự nguyện tổ chức cưới và được Ủy ban nhân dân xã Hoằng Ph cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 1991. Sau khi cưới vợ chồng sống bình thường cho đến thời gian gần đây thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai bên không phù hợp, vì vậy vợ chồng tôi sống ly thân lâu nay. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với cô T.

Về con: Chúng tôi có hai con chung là cháu Lê Đức H, sinh ngày 13/10/1992 và cháu Lê Đức Ph, sinh ngày 17/12/2006. Cháu H đã đủ tuổi thành niên và tự lập. Tôi có nguyện vọng được nuôi cháu Lê Đức Ph, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti lời trình bày ngày 06/8/2019 của ông Hoàng Hoa Th (bố đẻ của chị Hoàng Thị T) thể hiện: Năm 1991 gia đình tôi gả chồng cho chị T là anh Lê Đức S. Sau khi cưới xong anh chị vẫn làm ăn ở quê cho đến năm 2008 anh chị xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân xuất phát từ phía anh S không chăm lo đến vợ con và vợ chồng sống ly thân. Nay anh S làm đơn ly hôn chị T, gia đình tôi có nhận được giấy triệu tập và báo cho chị T đến làm việc nhưng do chị T đi làm xa không về được. Tôi không biết địa chỉ cụ thể của chị T mà T thường xuyên liên lạc với gia đình tôi bằng điện thoại. Chị T có nói tôi nhận giúp giấy tờ của Tòa án cho chị T và xin được giải quyết vắng mặt.

Về con: Anh S và chị T có 02 con chung là cháu Lê Đức H, sinh ngày 13/10/1992 và Lê Đức Ph, sinh ngày 17/12/2006. Hiện nay cháu H đang làm ăn ở Hà Nội, cháu Ph đang ở với chúng tôi.

Về tài sản: Anh S và chị T không có tài sản gì.

Ti lời trình bày ngày 05/8/2019 của cháu Lê Đức Ph thể hiện: bố mẹ cháu ly hôn, cháu quyết định ở với bố.

a án đã trực tiếp đến nhà chị T nhưng chị đi làm không có nhà nên đã giao các giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho bố đẻ chị T là ông Hoàng Hoa Th, ông cam đoan sẽ thông báo nội dung văn bản cho chị T.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày nhận xét về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Anh S và chị T kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, anh chị có mâu thuẫn và sống ly thân đã lâu, anh S đề nghị ly hôn, chị T biết nhưng không có ý kiến gì, thể hiện tình cảm của chị thực sự không còn. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận đề nghị xin ly hôn của anh Lê Đức S. Về con: Anh S và chị T có 02 con chung là cháu Lê Đức H, sinh ngày 13/10/1992 và Lê Đức Ph, sinh ngày 17/12/2006. Anh S đề nghị được nuôi cháu Ph và cháu cũng có nguyện vọng được ở với anh nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Lê Đức Ph cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản và công nợ: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Về án phí: đề nghị buộc nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định.

Nguyên đơn anh Lê Đức S không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Lê Đức S và chị Hoàng Thị T tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Hoằng Ph, huyện H, Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào tháng 01 năm 2004 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau bình thường, thời gian gần đây xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh chị sống ly thân từ nhiều năm nay không quan T đến nhau, chị Hoàng Thị T biết việc anh S xin ly hôn tại Tòa án, nhưng do chị làm ăn xa không thể về được, cũng không có ý kiến gì. Như vậy tình trạng hôn nhân của anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Đức S là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2] Về con: Anh Lê Đức S và chị Hoàng Thị T có hai con chung là cháu Lê Đức H, sinh ngày 13/10/1992 và Lê Đức Ph, sinh ngày 17/12/2006. Cháu H đã thành niên và tự lập. Anh S đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Ph và cháu cũng mong muốn được ở với bố. Vì vậy cần giao cháu Lê Đức Ph cho anh S trực tiếp nuôi là phù hợp. Nếu sau này chị T về và có nguyện vọng thì sẽ được quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con theo luật định.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lê Đức S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tố tụng: Ngày 26/8/2019, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương cho biết: Anh Lê Đức S và chị Hoàng Thị T kết hôn theo luật định, anh chị sống chung nhiều năm không thấy xảy ra mâu thuẫn gì. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cả anh và chị đều đi làm ăn xa, mỗi người một nơi. Nay anh S làm đơn ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh Lê Đức S có đơn đề nghị không hòa giải nên căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự không tiến hành hòa giải đối với anh chị.

Đối với chị Hoàng Thị T dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, đã giao toàn bộ giấy triệu tập và văn bản tố tụng của Tòa án cho bố chị là ông Hoàng Hoa Th, ông cam đoan thông báo lại nội dung cho chị T nhưng chị đều không có mặt tại Tòa án thể hiện chị bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, không mong muốn hòa giải để đoàn tụ. Tại phiên tòa ngày 30/9/2019, chị Hoàng Thị T vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh Lê Đức S có đơn xin xét xử vắng mặt, chị Hoàng Thị T vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn anh Lê Đức S phải chịu toàn bộ án phí dân sự trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Lê Đức S được ly hôn với chị Hoàng Thị T.

Về con: Công nhận hai cháu Lê Đức H, sinh ngày 13/10/1992 và Lê Đức Ph, sinh ngày 17/12/2006 là con chung của anh Lê Đức S và chị Hoàng Thị T. Cháu Lê Đức H đã đủ tuổi thành niên và tự lập. Giao cháu Lê Đức Ph cho anh Lê Đức S trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Hoàng Thị T có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Nguyên đơn anh Lê Đức S phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0005728 ngày 01 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Anh S đã nộp đủ.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh Lê Đức S và bị đơn chị Hoàng Thị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 290/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:290/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về