Bản án 289/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 289/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Mai Thị V, sinh năm 1986

Địa chỉ: thôn 4, xã A, huyện H, tỉnh Thanh Hoá.

Bị đơn: Anh Lê Sỹ V2, sinh năm 1976

Địa chỉ: thôn 3, xã A, huyện H, tỉnh Thanh Hoá.

Ti phiên tòa có mặt nguyên đơn chị Mai Thị V, vắng mặt bị đơn anh Lê Sỹ V2 không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 31/7/2019, bản tự khai ngày 05/8/2019 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Mai Thị V thể hiện:

Về Hôn nhân: Chị Mai Thị V và anh Lê Sỹ V2 tự nguyện kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân xã A cấp giấy chứng nhận kết hôn tháng 02 năm 2012. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc thời gian đầu và đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V2 không tu chí làm ăn, hay đánh đập vợ, hai bên gia đình đã dàn xếp nhưng anh V2 vẫn chứng nào tật ấy, vì vậy vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Lê Sỹ V2.

Về con: Vợ chồng tôi có hai con chung là cháu Lê Sỹ M, sinh ngày 21/10/2010 và cháu Lê Thị Hoàng Tr, sinh ngày 08/01/2012, hiện cháu Tr đang ở với tôi, cháu M đang ở với anh V2. Nguyện vọng của tôi đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Tr và anh V2 nuôi cháu M, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti lời trình bày ngày 12/8/2019 của bà Nguyễn Thị B (mẹ đẻ anh Lê Sỹ V2) thể hiện: Năm 2012 gia đình tôi cưới vợ cho anh V2 là chị Mai Thị V. Anh V2 và chị V sống cùng gia đình tôi đến năm 2016 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị V tự bỏ đi khỏi nhà tôi. Anh V2 và gia đình cũng đã yêu cầu chị V về nhà để vợ chồng chung sống nhưng chị V không về. Nay chị V xin ly hôn anh V2, do anh V2 ở nhà chờ đợi Tòa án giải quyết lâu nên mới đi làm ăn trong miền Nam để kiếm tiền nuôi con, thỉnh thoảng anh V2 cũng về thăm con và gửi tiền cho tôi nuôi con. Anh V2 đi làm ăn nhưng tôi không có địa chỉ cụ thể của anh, anh V2 chỉ liên lạc với tôi qua điện thoại. Hôm tôi nhận được giấy triệu tập của Tòa án triệu tập anh V2 nhưng anh mới đi cách đó một hôm, anh đi vào ngày 07/8/2019. Tôi cũng đã thông báo cho anh V2 biết việc chị V đề nghị ly hôn anh và có giấy gọi của Tòa, nhưng do công việc làm ăn anh V2 không về được.

Về con: Anh V2 và chị V có 02 con chung như chị V trình bày, cháu M do anh V2 nuôi và tôi trực tiếp chăm sóc, còn cháu Tr do chị V nuôi.

Về tài sản: Anh V2 và chị V không có tài sản chung.

Ngày 11/10/2019, anh V2 về và có trình bày: chị V ly hôn anh đã biết, lâu nay anh để cho vợ chồng có thời gian mong chị V nghĩ lại để vợ chồng quay về đoàn tụ, nhưng nay chị V cương quyết ly hôn nên tùy ở chị. Về con: Anh V2 mong muốn được trực tiếp nuôi cháu Lê Sỹ M.

Ti lời trình bày của cháu Lê Sỹ M thể hiện: bố mẹ ly hôn, cháu mong muốn được ở với bố; lời trình bày của cháu Lê Thị Hoàng Tr đều thể hiện: nay bố mẹ cháu ly hôn cháu xin được ở với mẹ.

Khi chị V nộp đơn ly hôn và Tòa án thụ lý vụ án, anh V2 đang có mặt ở nhà, nhưng do không đợi lâu được nên anh đã đi làm ăn, hôm sau mẹ anh mới nhận được giấy triệu tập do Tòa án gửi đến nên anh không có mặt tại Tòa án để làm việc, Tòa án đã trực tiếp đến nhà anh V2 nhưng anh đi làm không có nhà nên đã giao các giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ đẻ anh là bà Nguyễn Thị B, bà cam đoan giao hoặc thông báo nội dung văn bản cho anh V2.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày nhận xét về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tình trạng hôn nhân của anh Lê Sỹ V2 và chị Mai Thị V đã thực sự trầm trọng, chị V đề nghị ly hôn, anh V2 biết nhưng do phải đi làm không thể đợi lâu ở nhà, vì vậy khi mẹ anh thông báo về việc Tòa án triệu tập và báo về việc chị V đề nghị ly hôn nhưng anh không có ý kiến gì, thể hiện tình cảm của anh thực sự không còn. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận đề nghị xin ly hôn của chị V. Về con: Anh V2, chị V có 02 con chung là cháu Lê Sỹ M, sinh ngày 21/10/2010 và cháu Lê Thị Hoàng Tr, sinh ngày 08/01/2012. Anh V2 đề nghị được nuôi cháu M, chị V đề nghị được nuôi cháu Tr, phù hợp với nguyện vọng của các cháu và tránh xáo trộn về nơi sinh hoạt nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Lê Sỹ M cho anh V2 trực tiếp nuôi, giao cháu Lê Thị Hoàng Tr cho chị V trực tiếp nuôi là phù hợp. Về cấp dưỡng: các bên không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản và công nợ: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Về án phí: Đề nghị buộc nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định. Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị V không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Lê Sỹ V2 và chị Mai Thị V tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào tháng 02 năm 2012 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh chị sống ly thân từ nhiều năm nay không quan tâm đến nhau, anh Lê Sỹ V2 biết việc chị V xin ly hôn tại Tòa án, nhưng do điều kiện công việc anh không thể chờ đợi được nên đã đi làm, anh không đến Tòa án để làm việc thể hiện anh cũng không thiết tha đối với việc hòa giải hàn gắn gia đình. Như vậy tình trạng hôn nhân của anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Thị V là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2] Về con: Anh Lê Sỹ V2 và chị Mai Thị V có hai con chung là cháu Lê Sỹ M, sinh ngày 21/10/2010 và cháu Lê Thị Hoàng Tr, sinh ngày 08/01/2012. Chị V đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Tr, còn để cháu M cho anh V2 nuôi, phù hợp với nguyện vọng của các cháu và thực tế lâu nay cháu M đang ở với anh V2, cháu Tr đang ở với chị V. Vì vậy cần giao cháu Lê Sỹ M cho anh Lê Sỹ V2 trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lê Thị Hoàng Tr cho chị Mai Thị V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Mai Thị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tố tụng: Ngày 22/8/2019, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương xã A cho biết: Anh Lê Sỹ V2 và chị Mai Thị V đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A theo giấy chứng nhận kết hôn số 05 cấp ngày 10/02/2012. Năm 2015 anh V2 chị V có mâu thuẫn nên chị V về nhà mẹ đẻ cùng xã ở. Nay chị V đề nghị ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị Mai Thị V có đơn đề nghị không hòa giải nên căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự không tiến hành hòa giải đối với anh chị.

Đối với anh Lê Sỹ V2 dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, đã giao toàn bộ giấy triệu tập và văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ anh là bà Nguyễn Thị B, bà cam đoan thông báo lại nội dung cho anh V2 nhưng anh đều không có mặt tại Tòa án thể hiện anh bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, không mong muốn hòa giải để đoàn tụ. Tại phiên tòa ngày 30/9/2019, anh Lê Sỹ V2 vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh Lê Sỹ V2 vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn chị Mai Thị V phải chịu toàn bộ án phí dân sự trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Mai Thị V được ly hôn với anh Lê Sỹ V2.

Về con: Công nhận cháu Lê Sỹ M, sinh ngày 21/10/2010 và cháu Lê Thị Hoàng Tr, sinh ngày 08/01/2012 là con chung của anh Lê Sỹ V2 và chị Mai Thị V. Giao cháu Lê Sỹ M cho anh Lê Sỹ V2 trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Lê Thị Hoàng Tr cho chị Mai Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hai bên có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Nguyên đơn chị Mai Thị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0005727 ngày 01 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị V đã nộp đủ.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Mai Thị V được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn anh Lê Sỹ V2 quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 289/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:289/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về