Bản án 288/2018/HS-PT ngày 09/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 288/2018/HS-PT NGÀY 09/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 197/2018/TLPT-HS ngày 12 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo Lê Thành L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2018/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2018 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

* Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thành L, sinh năm 1980; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện N, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; con ông Lê Thành S và bà Nguyễn Thị C; có vợ là Trịnh Thị P và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2017; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thành L, Trần Anh L1 và Nguyễn Xuân T quen biết với nhau từ trước và cùng thuê trọ tại nhà nghỉ Hở phố K, quận H, thành phố Hà Nội. Để có tiền ăn tiêu cá nhân, L, L1 và T rủ nhau lợi dụng các ngày thứ bẩy, chủ nhật khi cán bộ, công chức nghỉ thì vào phòng làm việc cậy cửa để trộm cắp tài sản. Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2017 đến tháng 6/2017, L, L1 và T đã từ nơi thuê trọ thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn các tỉnh Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam cụ thể như sau:

1. Tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh:

- Vụ thứ nhất: Sáng chủ nhật, ngày 19/3/2017 L1 và 01 thanh niên theo L1 khai là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979, trú tại: thôn T, xã H, huyện N, tỉnh Bình Định cùng nhau đi trộm cắp tài sản tại tỉnh Bắc Ninh bằng xe môtô của Đ nhãn hiệu Future màu đen, L1 chỉ nhớ BKS hai số đầu là số 59, khi đi Đ đưa cho L1 01 chiếc túi xách màu đen, bên trong túi đựng 01 chiếc tô vít loại phi 8 có 6 cạnh, một đầu dẹt dài 30cm, chuôi bằng nhựa màu xanh đen dài 11cm. Khi đi đến Chi Cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh thuộc địa phận phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Đ đỗ xe ở ngoài cổng chờ, còn L1 đi vào trong dùng tô vít mà Đ đã đưa cho trước đó, cậy phá khóa cửa phòng của ông Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1962 - Chi cục phó, vào trong lục soát lấy được 20.000.000đ ở trong tủ đứng ở phòng ngủ của ông D, sau đó L1 lại tiếp tục đi sang dùng tô vít cậy phá khóa cửa phòng của ông Vũ Mạnh H, sinh năm 1961- Chi cục trưởng, vào trong lục soát lấy được 1.600 Euro và 400.000 VNĐ ở trong tủ đứng hai cánh phòng ngủ của ông H. Số tiền này L1 cho Đ 800 Euro và 10.200.000đ, còn lại L1 ăn tiêu hết.

Tại Công văn số 462/NHNN-BNI1 ngày 17/5/2017, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Bắc Ninh thông báo về tỷ giá đồng Euro quy đổi ra tiền tiền VNĐ có hiệu lực từ ngày 16/3/2017 đến 22/3/2017: 01 Euro = 23.624.43 VNĐ. Như vậy 1.600 Euro = 37.799.088 VNĐ. Tổng số L1 trộm cắp được 57.799.088đ.

Ngày 26/10/2017, anh Trịnh Hoàng D, sinh năm 1983, trú tại thôn B, xã T, huyện A, tỉnh Bình Định là anh trai của vợ bị cáo L đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 58.000.000đ để bồi thường thiệt hại. Số tiền này Cơ quan CSĐT đã trả lại ông D 20.000.000đ, ông H 38.000.000đ, ông D, ông H đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo L1.

- Vụ thứ hai: Sáng chủ nhật, ngày 07/5/2017, L1 và L đi từ nhà nghỉ trọ ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội về địa bàn tỉnh Bắc Ninh để trộm cắp tài sản. Khi đi đến trụ sở Chi cục Thuế huyện Tiên Du ở số 11 đường Lý Thường Kiệt, thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, L1 đỗ xe đứng ngoài cổng đợi, còn L đi vào phòng bảo vệ gặp ông Nguyễn Đăng H1, sinh năm 1962 (là bảo vệ của Chi cục Thuế huyện Tiên Du) nói với ông H1 là cho L vào bên trong để sửa chữa mạng Internet. Khi L đi vào trong thì ông Hưởng gọi L1 vào trong phòng bảo vệ ngồi đợi, L đi đến phòng làm việc của anh Nguyễn Văn Thể, sinh năm 1971 - Chi cục trưởng, dùng tô vít do L1 đưa cho trước đó cậy phá khóa cửa phòng của anh Thể rồi vào trong lục soát và lấy được 60.000.000đ ở trong ngăn bàn làm việc của anh Thể, sau đó L đi sang dùng tô vít cậy phá khóa cửa phòng của chị Nguyễn Thị D1, sinh năm 1979 - Chi cục phó nhưng không lấy được tài sản gì. Sau đó L, L1 đi về nhà nghỉ thuê ở Hà Nội, L chia cho L1 25.000.000đ còn L hưởng 35.000.000đ. Số tiền trên L và L1 ăn tiêu hết.

Ngày 25/10/2017, anh Trịnh Hoàng D đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 60.000.000đ để bồi thường cho anh H1. Cơ quan CSĐT đã trả lại anh H1 số tiền trên, anh H1 đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

- Vụ thứ ba: Khoảng 17h, thứ bảy ngày 13/5/2017, L1 và L đến trụ sở Công ty Môi trường và đô thị Bắc Ninh ở số 4, Nguyễn Đăng Đạo, phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh để trộm cắp tài sản. L1 dừng xe ở cổng, L mang theo túi và tô vít do L1 đưa cho đến phòng bảo vệ bảo ông Nguyễn Đăng B, sinh năm 1954 là nhân viên bảo vệ nói với ông B là cho L vào gặp ông Chủ tịch hội đồng quản trị và ông Giám đốc Công ty có việc. Sau đó L đi vào dùng tô vít mang theo cậy phá cửa phòng của ông Ngô Bảo Châu, sinh năm 1965 - Chủ tịch Hội đồng quản trị nhưng không lấy được tài sản gì, sau đó L đi sang phòng dùng tô vít cậy phá cửa phòng của ông Vũ Đức T, sinh năm 1960 - Giám đốc vào trong lấy được 15.000.000đ ở ngăn tủ đựng hồ sơ. Số tiền này L chia cho L1 7.000.000đ, L cầm 8.000.000đ và ăn tiêu hết.

Ngày 25/10/2017, anh Trịnh Hoàng D, đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 15.000.000đ để bồi thường cho ông T. Cơ quan CSĐT đã trả lại ông T số tiền trên, ông T đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

- Vụ thứ tư: Vẫn thủ đoạn như trên, buổi trưa ngày 01/6/2017, L1 đứng ngoài cổng đợi,  L cậy cửa vào phòng làm việc của ông Nguyễn Xuân Thanh - Chủ tịch UBND thị xã Từ Sơn để trộm cắp tài sản, nhưng khi đó ông Thanh đang nghỉ trưa ở phòng trong, nên bị ông Thanh phát hiện. L đã bỏ chạy không lấy được tài sản gì.

- Vụ thứ năm: Đầu giờ chiều thứ bẩy, ngày 03/6/2017, L1 đứng ngoài cổng đợi, L vào trong cậy cửa phòng làm việc của ông Hà Sỹ Tiếp – Chủ tịch Uỷ ban MTTQ tỉnh Bắc Ninh, nhưng không lấy được tài sản gì.

- Vụ thứ sáu: Sau khi không lấy được tài sản ở Uỷ ban MTTQ tỉnh Bắc Ninh, L và L1 đi về trụ sở UBND huyện Tiên Du, L1 dừng xe ở cổng, còn L đi vào dùng tô vít mang theo cậy phá khóa cửa phòng làm việc của ông Lê Xuân Lợi – Chủ tịch UBND huyện Tiên Du, nhưng không lấy được tài sản gì.

- Vụ thứ bẩy: Sau khi không lấy được tài sản ở UBND huyện Tiên Du, L và L1 đi sang trụ sở Huyện ủy huyện Tiên Du, L1 dừng xe ở cổng, còn L đi vào dùng tô vít mang theo cậy phá cửa sổ phòng làm việc của ông Nguyễn Công T1 – Bí thư Huyện ủy huyện Tiên Du, nhưng không lấy được tài sản gì.

- Vụ thứ tám: Sau khi không lấy được tài sản ở Huyện ủy Tiên Du, L và L1 đi về trụ sở Huyện ủy Thuận Thành, L1 dừng xe ở cổng, còn L đi vào trong trụ sở Huyện ủy. Khi đến phòng làm việc của ông Ngô Tân Phượng - Bí thư Huyện ủy, phát hiện cửa phòng của ông Phượng không khóa, nên L mở cửa phòng vào trong lục soát và lấy được 01 chiếc túi sách ở bàn làm việc của ông Phượng, trong túi đựng 01 quyển sổ tay bìa màu đỏ và 45.000.000đ. Trên đường về Hà Nội, L đã vứt chiếc túi và quyển sổ đi, chia cho L1 20.000.000đ, còn L cầm 25.000.000đ. Số tiền trên L và L1 ăn tiêu hết.

Ngày 25/10/2017, anh Trịnh Hoàng D đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 45.000.000đ để bồi thường cho ông Phượng. Cơ quan CSĐT đã trả lại ông Phượng số tiền trên, ông Phượng không yêu cầu các bị cáo bồi thường chiếc túi và quyển sổ.

- Vụ thứ chín: Sau khi trộm cắp được tài sản ở Huyện ủy Thuận Thành, L và L1 đi sang trụ sở của Công ty TNHH một thành viên khai thác công trình thủy lợi Nam Đuống ở thị trấn Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh L1 dừng xe ở cổng, còn L đi vào dùng tô vít mang theo cậy phá khóa cửa phòng của ông Hoàng Văn Cường - Giám đốc vào trong phòng lục soát, nhưng không lấy được tài sản gì.

2. Tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa:

Khoảng 13h, chủ nhật ngày 28/5/2017, T điều khiển xe môtô chở L đến UBND huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, T đỗ xe ở ngoài cổng, còn L đi vào trong UNND huyện Quảng Xương nói với ông Hán Văn Th, sinh năm 1960 - bảo vệ của UBND huyện là người đến liên hệ công tác. Sau đó L đi lên tầng 2 dùng tô vít cậy phá khóa cửa phòng làm việc của ông Đỗ Đình C1 – Phó Chủ tịch HĐND huyện, nhưng không lấy được tài sản gì, tiếp theo đó L lại dùng tô vít cậy phá khóa cửa phòng làm việc của ông Trần Văn C2, sinh năm 1960 - Chủ tịch UBND huyện Quảng Xương vào trong lục soát ở tủ gỗ trong phòng ngủ lấy được 48.500.000đ. Số tiền này L chia cho T 20.000.000đ, L cầm 28.500.000đ. Số tiền trên L và T ăn tiêu hết.

Ngày 01/8/2017, anh Trịnh Hoàng D đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 48.500.000đ để bồi thường cho ông Công. Cơ quan CSĐT đã trả lại ông Công số tiền trên.

3. Tại địa bàn tỉnh Hưng Yên:

Khoảng 7h30', chủ nhật ngày 04/6/2017, L1 và L đi xe môtô của L1, đi từ Hà Nội đến UBND huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Tại đây L1 đỗ xe đứng ngoài cổng, còn L đi vào trong UBND huyện, nhưng do có bảo vệ trực, nên L đi sang Huyện ủy Phù Cừ cạnh đó, L dùng tô vít cậy phá khóa cửa phòng của ông Lê Trí V - Bí thư huyện ủy lục soát lấy được 100.000.000đ và 92 USD Mỹ (loại tờ 02 USD). Số tiền này L chia cho L1 45.000.000đ và 14 USD, L cầm 55.000.000đ và 78 USD. Số tiền trên L và L1 ăn tiêu hết.

Cơ quan điều tra đã xác minh tại Ngân hàng Agribank huyện Phù Cừ xác định: Tỷ giá đồng USD (đôla Mỹ) quy ra tiền VNĐ ngày 05/6/2017, loại dưới hoặc bằng 50 USD, thì 01 USD =  22.670 VNĐ (vì ngày 04/6/2017 là ngày chủ nhật, nên được áp dụng ngày kế tiếp) như vậy 92 USD = 2.085.640 VNĐ.

Ngày 20/8/2017, anh Trịnh Hoàng D đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 50.000.000đ để bồi thường cho ông Viễn (phần của L). Cơ quan CSĐT đã trả lại ông Viễn số tiền trên, ông Viễn tiếp tục yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền còn lại và đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo L.

4. Tại địa bàn tỉnh Hà Nam:

Khoảng 12h, ngày 02/6/2017, L1 và L đến UBND huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam để trộm cắp tài sản. Tại đây, L1 đỗ xe đứng ngoài cổng, còn L đi vào trong dùng tô vít cậy phá khóa cửa phòng làm việc của ông Phạm Hồng T5 - Chủ tịch UBND huyện Duy Tiên vào trong lục soát lấy được 30.000.000đ. Số tiền này L chia cho L1 10.000.000đ, L cầm 20.000.000đ. Số tiền trên L và L1 ăn tiêu hết.

Ngày 29/8/2017, anh Trịnh Hoàng D đã tự nguyện nộp Cơ quan CSĐT số tiền 30.000.000đ để bồi thường cho ông Thành. Cơ quan CSĐT đã trả lại ông Thành số tiền trên. Như vậy, Lê Thành  L phải chịu trách nhiệm hình sự về số tiền trộm cắp là 300.585.540đ.

Ngày 23/6/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh (PC45) ra lệnh bắt khẩn cấp và khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Thành L, tại thôn T 1, xã H, huyện N, tỉnh Bình Định và thi hành lệnh bắt, Lệnh khám xét ngày 25/6/2017 tại nhà của L, nhưng do L không có ở nhà và đã bỏ trốn khỏi địa phương đến thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó vào một ngày cuối tháng 6, khi ở khu vực cầu vượt L1 Xuân, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, thì L điện thoại cho Nguyễn Xuân T và nói T ra đón L để chạy trốn khỏi việc truy bắt của Công an tỉnh Bắc Ninh, khoảng 10 phút sau T đi xe môtô nhãn hiệu Wave không nhớ biển kiểm soát gặp L, tại đây L lại nói với T là đưa L đi trốn do Công an tỉnh Bắc Ninh đang truy bắt về hành vi trộm cắp tài sản tại tỉnh Bắc Ninh. T đồng ý và chở L đi trốn ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, thuê nhà nghỉ ở hai ngày, nhưng vẫn sợ Công an tỉnh Bắc Ninh truy bắt, nên T lại chở L trốn đến huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, thuê nhà trọ ở hai ngày, rồi lại tiếp tục di chuyển đến thành phố Bảo L, tỉnh Lâm Đồng để trốn. Tuy nhiên qua truy xét đến ngày 03/7/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh đã bắt được L và T tại tỉnh Lâm Đồng. Tại cơ quan điều tra, L và T đều khai nhận toàn bộ hành vi L nhờ T đưa L đi chạy trốn như đã nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2018/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 47; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Lê Thành L 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/7/2017.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/02/2018, bị cáo Lê Thành L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06/02/2018, bị cáo Trần Anh L1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 09/4/2018, bị cáo Trần Anh L1 đã có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo.

Ngày  24/4/2018,  Tòa  án  nhân  dân  cấp  cao  ban  hành  văn  bản  số 86/2018/TB-RKC thông báo về việc rút kháng cáo nêu trên của bị cáo Trần Anh L1.

Tại phiên toà hôm nay sau phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định, đủ điều kiện xét xử theo trình tự phúc thẩm. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay, có đủ cơ sở kết luận Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Xét kháng cáo của bị cáo, hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến tình hình trị an xã hội, án sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo và áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt. Các tài liệu do gia đình bị cáo bổ sung đều thuộc quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai và tự bào chữa của bị cáo;

[1] Xét thấy, tại phiên toà hôm nay, bị cáo L đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên phù hợp với lời khai của các bị cáo khác tại cơ quan điều tra như Trần Anh L1 và Nguyễn Xuân T, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo L tham gia trộm cắp 06 vụ với tổng số tiền là 300.585.540đ; Hành vi của Lê Thành L, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999;

[2] Xét trong một thời gian ngắn, L cùng các bị cáo khác đã nhiều lần lén lút đột nhập vào trụ sở các cơ quan, công sở phá khóa trộm cắp nhiều tài sản trên nhiều địa bàn khác nhau thuộc tỉnh Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam. Hành vi phạm tội của bị cáo cùng các bị cáo khác rất nghiêm trọng, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ngoài xã hội; Bị cáo L phạm vào tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999; nên cần xử lý nghiêm, buộc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng quan điểm với nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm về bị cáo L như sau: Bị cáo L là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội, bị cáo L đã có ý thức tác động với gia đình để tự nguyện nộp tiền khắc phục hậu quả cho những người bị hại. Anh Trịnh Hoàng D là anh rể của bị cáo đã có đơn trình bày tự nguyện dùng số tiền của cá nhân để bồi thường thay cho L.

Xét thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tất cả 9 người bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L; Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay gia đình bị cáo xuất trình các tài liệu mới như: Bố và mẹ đẻ của bị cáo đều được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến và đều được hưởng chế độ như thương binh; bà nội bị cáo được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bị cáo L có ba con, bé nhất mới 3 tuổi; bị cáo không có tiền án, tiền sự, trong đó đã bồi thường toàn bộ cho người bị hại được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 và cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự phạt bị cáo mức án dưới khung hình để giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Qua đó, thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước ta trong chính sách hình sự đối với những người thực sự biết ăn năn hối cải và hướng thiện, tạo điều kiện cho họ yên tâm cải tạo, rèn luyện, tu dưỡng để sớm được trở về hòa nhập với cộng đồng trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c, khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thành L; Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Thành L.

Tuyên bố bị cáo Lê Thành L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 47; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Lê Thành L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/7/2017.

[3] Về án phí: Bị cáo Lê Thành L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 288/2018/HS-PT ngày 09/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:288/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về