Bản án 285/2021/HS-ST ngày 22/09/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 285/2021/HS-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22/9/2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 269/2021/TLST-HS ngày 07/9/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 275/2021/QĐXXST-HS ngày 10/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh Ng - Sinh ngày 13/01/1985, tại thành phố Hải Phòng.

Nơi đăng ký thường trú: Thôn A, xã V, huyện B, thành phố Hải Phòng. Chỗ ở hiện nay: Số N, phường C, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông: Nguyễn Văn N, sinh năm: 1962; Con bà: Cao Thị Nh, (đã chết); Bị cáo có vợ: Võ Thị T, sinh năm: 1985; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm: 2011, con nhỏ sinh năm: 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2021 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Ông Trương Quang T - Sinh năm: 1990, trú tại: Buôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị Lệ H - Sinh năm 1974, trú tại: Số C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 24/11/2016, Nguyễn Mạnh Ng sử dụng điện thoại di động số AAA gọi điện thoại vào số 0946.765.253, chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202, màu xanh, số Imei 358285030460112 của Trương Quang Th (sinh năm 1990, trú tại: Buôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk) để nhờ Th đánh bạc hộ bằng hình thức đánh số đề, thì Th đồng ý. Sau đó, Th đi đến gặp Nguyễn Thị Lệ H (sinh năm 1974, trú tại đường C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk). Lúc này, H đang bán hàng trái cây ở lề đường V, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đến nơi, Th hỏi H “Có ghi số đề không?”, H trả lời là "Có". Sau đó, Th quay lại khu vực Quảng trường C, thành phố B và gặp Ng, tại đây Ng nói với Th đánh các số lô đề như sau: Đánh bao lô các số 02, 47 mỗi số 5 điểm; Đánh 3 chân kề đặc biệt các số 502 và 451 mỗi số đánh 50.000 đồng và Ng đưa cho Th số tiền là 235.000 đồng. Sau đó, Th xin 01 tờ giấy kẻ ô ly học sinh và nhờ một người phụ nữ (Chưa xác định nhân thân lai lịch) đang ngồi trong quán cà phê đối diện với Quảng trường C, thành phố B ghi các số lô đề do Th đọc để đánh đề. Sau khi ghi xong, Th một mình quay trở lại sạp hàng trái cây nơi H đang bán hàng và đưa cho H phơi đề ghi sẵn. H nhận phơi đề rồi kiểm tra thì thấy các số đề Th đánh như sau:

Đánh bao lô các số 36; 68; 02; 70; 54; 47; 84; 11, mỗi số đánh 05 điểm (Trong đó mỗi điểm tương ứng với số tiền là 14.000 đồng, nếu trúng thì mỗi điểm sẽ thắng với số tiền 70.000 đồng); Đánh 02 số cuối của giải đặc biệt gồm các số: Số 00; 79 đánh mỗi số 30.000 đồng; Số 70 đánh 40.000 đồng; Số 02; 20; 36; 31; 16; 99; 38; 78; 87; 07; 86; 54; 10, đánh mỗi số 20.000 đồng (Nếu trúng một trong các số trên tỉ lệ ăn thua là 1 ăn 70; Ví dụ: Nếu số 00 trúng vào 2 số cuối của giải đặc biệt thì số tiền thắng được tính là 30.000 đồng x 70 = 2.100.000 đồng); Đánh 03 số cuối của giải đặc biệt gồm các số sau: Số 502 đánh 80.000 đồng; Số 279; 614 đánh 60.000 đồng; Số 036; 451; 942; 761 đánh mỗi số 50.000 đồng; Số 184; 810; 428; 197; 399 đánh mỗi số 40.000 đồng (Nếu trúng một trong các số trên thì tỉ lệ thắng được tính là 1 ăn 500; Ví dụ: Nếu số 502 là 3 số cuối của giải đặc biệt thì số tiền thắng sẽ là 80.000 đồng x 500 = 40.000.000 đồng). Trong các số trên, Ng đánh 04 số đề gồm: Đánh bao lô hai số 02 và 47 mỗi số 5 điểm; đánh ba số cuối của giải đặc biệt là số 502 và số 451, mỗi số đánh 50.000 đồng. H nhận phơi đề do Th đưa và tính số tiền đánh đề của Th là 1.520.000 đồng, nhưng H cho Th 160.000 đồng chỉ lấy của Th số tiền 1.360.000 đồng (trong đó số tiền 235.000 đồng Ng đưa cho Th để đánh đề, còn lại Th bỏ ra đánh với H). H và Th thỏa thuận sẽ sử dụng kết quả xổ số của Công ty xổ số Bình Định vào ngày 24/11/2016 để đánh đề, thỏa thuận xong H cất phơi đề còn Th ra về.

Đến khoảng 17 giờ 35 phút cùng ngày, sau khi có kết quả xổ số Bình Định, thì Ng gọi điện cho Th báo tin đã trúng đề số 451 với số tiền thắng đề là 25.000.000 đồng và nói Th đi lấy tiền trúng đề. Th ra gặp H để lấy tiền nhưng do chưa có tiền, nên H hẹn đến ngày 25/11/2016 sẽ trả cho Th. Lúc này, Th nói với H là số đề trúng trên không phải là của Th mà là của Ng, nên Th gọi điện thoại cho Ng để Ng đến gặp H. Khi Ng đến thì Ng thỏa thuận cho H số tiền 7.000.000 đồng và chỉ lấy số tiền 18.000.000 đồng trong số tiền trúng đề. H đưa trước cho Ng số tiền 5.000.000 đồng, số tiền 13.000.000 đồng còn lại H hẹn ngày hôm sau sẽ trả đủ cho Ng, đồng thời, H viết một mảnh giấy ghi lại nội dung H nợ Ng số tiền 13.000.000 đồng. Sau đó, Th và Ng nhiều lần đòi H số tiền 13.000.000 đồng còn lại nhưng H chưa trả. Đến khoảng 18 giờ ngày 02/12/2016, Ng và Th đến nhà của H ở số N, phường T, thành phố B để lấy tiền, nhưng H không trả nên giữa hai bên xảy ra cãi nhau. H báo cho Công an phường T, thành phố Buôn Ma Thuột đến làm việc. Quá trình làm việc tại Công an phường T thì H, Ng và Th bị phát hiện hành vi đánh bạc.

Quá trình điều tra Nguyễn Mạnh Ng đã bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định truy nã, ngày 23/6/2021 bắt được Nguyễn Mạnh Ng.

Tại Cáo trạng số 304/KSĐT-HS ngày 07/9/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh Ng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 248; các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh Ng phạm tội “Đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh Ng từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/6/2021.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với số tiền 1.360.000 đồng mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202, màu xanh, số Imei: 358285030460112 cùng 01 thẻ sim của Trương Quang Th đã được xử lý tại Bản án số 175/2017/HSST ngày 28/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, nên không đề cập xử lý.

Đối với số tiền 5.000.000 đồng do Nguyễn Thị Lệ H đưa cho bị cáo Nguyễn Mạnh Ng, đây là số tiền thu lợi bất chính từ việc thắng bạc, nên cần truy thu của bị cáo Ng để nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen cùng sim số thuê bao 01219727679 là phương tiện của bị cáo Nguyễn Mạnh Ng sử dụng để liên lạc với Trương Quang Th vào ngày 24/11/2016 để tham gia đánh bạc cùng với Nguyễn Thị Lệ H, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn và làm mất không rõ ở đâu, nên Cơ quan điều tra không thu giữ được để xử lý.

Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh Ng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Ngày 24/11/2016, tại hàng trái cây ở lề đường V, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Mạnh Ng đã nhờ Trương Quang Th, đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với Nguyễn Thị Lệ H (theo kết quả xổ số đài Bình Định cùng ngày), với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 25.235.000 đồng, trong đó số tiền Ng đưa cho Th ghi số đề là 235.000 đồng, số tiền Ng trúng đề là 25.000.000 đồng. Do đó Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh Ng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể: Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.

...

Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi để biết được rằng đánh bạc được thua bằng tiền trái phép dưới bất kỳ hình thức nào cũng là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, song do ý thức coi thường pháp luật bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, đồng thời còn gây ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được quy định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 1.360.000 đồng mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202, màu xanh, số Imei: 358285030460112 cùng 01 thẻ sim của Trương Quang Th đã được xử lý tại Bản án số 175/2017/HSST ngày 28/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, nên không đề cập xử lý.

Đối với số tiền 5.000.000 đồng do Nguyễn Thị Lệ H đưa cho bị cáo Nguyễn Mạnh Ng, đây là số tiền thu lợi bất chính từ việc thắng bạc, nên cần truy thu của Nguyễn Mạnh Ng để nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen cùng sim số thuê bao 01219727679 là phương tiện của bị cáo Nguyễn Mạnh Ng sử dụng để liên lạc với Trương Quang Th vào ngày 24/11/2016 để tham gia đánh bạc cùng với Nguyễn Thị Lệ H, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn và làm mất không rõ ở đâu, nên Cơ quan điều tra không thu giữ được để xử lý.

[5] Các vấn đề khác: Đối với hành vi phạm tội của Trương Quang Th; Nguyễn Thị Lệ H, hành vi liên quan của người phụ nữ mà Th nhờ ghi phơi đề tại quán cà phê (chưa rõ nhân thân lai lịch), đã được xử lý tại Bản án số 175/2017/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Bản án số 318/2017/HSPT ngày 07 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, nên không đề cập xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh Ng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 248; Các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh Ng phạm tội: “Đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh Ng: 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 23/6/2021.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Truy thu bị cáo Nguyễn Mạnh Ng số tiền 5.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Mạnh Ng phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 285/2021/HS-ST ngày 22/09/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:285/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về