TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 285/2021/HS-PT NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/TLPT-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Trần Văn Q và đồng phạm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSCTN-ST ngày 11/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
-Bị cáo có kháng cáo:
1. Trần Văn Q (Tên gọi khác: T ben) , sinh ngày: 20/8/1994 tại Bình Định; Nơi cư trú: Tp. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn Q (đã chết) và bà Trần Thị Ngọc D; Tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Ngày 05/12/2014, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/02/2020 và bị tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Bình P, sinh ngày: 06/02/2003 tại Bình Định; Nơi đăng ký HKTT: Tp. Q, tỉnh Bình Định; Nơi ở hiện nay: Tp. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp:
Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T và bà Lê Thị D; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/11/2019 và tạm giam đến ngày 08/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3.Nguyễn Đức Q, sinh ngày: 08/6/2002tại Bình Định; Nơi đăng ký HKTT: Tp Q, tỉnh Bình Định; Nơi ở hiện nay: Tp Q, Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức H và bà Lê Thị T; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/11/2019 và tạm giam đến ngày 08/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4. Nguyễn Quốc H, sinh ngày: 20/3/2003 tại Bình Định; Nơi đăng ký HKTT: Tp. Q, tỉnh Bình Định; Nơi ở hiện nay: Tp. Q, Bình Định;Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn T và bà Dương Thị Diễm K; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/11/2019 và tạm giam đến ngày 08/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Bình P: Ông Lê Văn T, sinh năm 1976 và bà Lê Thị D, sinh năm 1976; Nơi đăng ký HKTT: Tp Q, tỉnh Bình Định; Nơi ở hiện nay: Tp Q, tỉnh Bình Định - Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Đức Q: Ông Nguyễn Đức H, Sinh năm 1967 và bà Lê Thị T Sinh năm 1970; Nơi đăng ký HKTT: Tp Q, tỉnh Bình Định; Nơi ở hiện nay: Tp Q, tỉnh Bình Định.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Quốc H: Ông Nguyễn T, sinh năm 1979 và bà Dương Thị Diễm K, sinh năm 1979; Nơi đăng ký HKTT: Tp Q, tỉnh Bình Định; Nơi ở hiện nay: Tp Q, tỉnh Bình Định.
- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Đức Q, Lê Bình P,Nguyễn Quốc H: Ông Hồ Văn Hải - Luật sư của Văn phòng luật sư Hải Luật - Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định; Địa chỉ: 15A Nguyễn Văn T, phường Nhơn Bình, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 22h20’ ngày 21/11/2019, tại tầng hầm Trung tâm thương mại A (TP. Q, Bình Định), Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bình Định bắt quả tang Lê Bình P và Nguyễn Đức Q đang tàng trữ 05 viên nén hình lục giác màu vàng và 01 gói ni lông hàn kín 4 góc chứa tinh thể dạng hạt không màu nghi là ma túy. P và Q khai số tang vật bị thu giữ là thuốc lắc và ma túy khay do Trần Văn Q giao đi bán cho một thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) tại quán Karaoke Sky (tại Trung tâm thương mại A) với giá 5.000.000đ. Tiếp tục khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Văn Q tại Tp. Q, Cơ quan điều tra thu giữ 18 gói ni lông hàn kín 4 góc chứa tinh thể hạt không màu và 01 gói ni lông chứa 17 viên nén màu xanh và màu vàng.
Tại Biên bản kết luận giám định số 298, ngày 26/11/2019, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định xác định:
- Số tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lê Bình P và Nguyễn Đức Q đều là ma túy, gồm: 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA.
- Số tang vật thu giữ khi khám xét nhà trọ Trần Văn Q đều là ma túy, gồm:
20,5491 gam Ketamine và 6,317 gam MDMA.
Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận:
Trần Văn Q là người sử dụng ma túy. Trong khoảng thời gian từ tháng 8/2019 đến tháng 11/2019, Qúy đã nhiều lần mua ma túy của một thanh niên tên “Chó phố núi” (không rõ lai lịch, địa chỉ) và một thanh niên tên Triệu ở Tp. Hồ Chí Minh (không rõ lai lịch, địa chỉ) với số lượng 68 viên thuốc lắc (MDMA), 03 hộp mười, 03 hộp năm và 06 chấm khay (Ketamine) với tổng số tiền 70.300.000đ. Số ma túy này được Q chia nhỏ, sử dụng hết một phần, một phần tàng trữ để bán bị thu giữ khi khám xét, một phần đã bán cho các con nghiện. Cụ thể đã bán như sau:
Trần Văn Q trực tiếp bán cho các đối tượng nghiện:
- Bán cho Nguyễn Văn T (sinh ngày 09/02/1996; HKTT: Tp. Q, tỉnh Bình Định) 03 lần, 04 “chấm” khay, có khối lượng 1,1956 gam Ketamine,với số tiền 4.000.000đ.
- Bán cho Lê Hoàng V (sinh năm 2001; HKTT: Tp. Q, Bình Định) 02 lần, 03 viên thuốc lắc và 04 “chấm” khay, có khối lượng 1,1235 gam MDMA và 1,1956 gam Ketamine,với số tiền 5.050.000đ.
- Bán cho một nam thanh niên tên C (không rõ lai lịch, địa chỉ) 02 lần, 02 viên thuốc lắc, 01“nửa hộp năm” khay và 02 “chấm” khay, với số tiền 5.700.000đ.
- Bán cho một nam thanh niên tên T (không rõ lai lịch, địa chỉ) 02 lần,02 “nửa hộp năm” khay, với số tiền 7.000.000đ.
Ngoài ra, Trần Văn Q còn giao cho Lê Bình P, Nguyễn Đức Q và Nguyễn Quốc H bán ma túy cho các đối tượng nghiện, cụ thể:
- Giao cho Lê Bình P mang đi bán cho Nguyễn Văn T (sinh ngày 09/02/1996; HKTT: Tp. Q, tỉnh Bình Định) 01 lần, 02 “chấm” khay và 02 viên thuốc lắc, có khối lượng 0,5978 gam Ketamine và 0,749 gam MDMA, với số tiền 2.600.000đ.
- Giao cho Lê Bình P mang đi bán cho 02 nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) 02 lần, 03 viên thuốc lắc, 01 “nửa hộp năm” và 02 “chấm” khay, với số tiền 6.000.000đ.
- Giao cho Nguyễn Đức Q mang đi bán cho 04 nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) 04 lần, 08 viên thuốc lắc và 06 “chấm” khay, với số tiền 7.200.000đ.
- Giao cho Nguyễn Quốc H mang đi cho 04 nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) 04 lần, 07 viên thuốc lắc và 08 “chấm” khay, với số tiền 8.500.000đ.
- Giao cho Lê Bình P và Nguyễn Đức Q đi bán cho một nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) vào ngày 21/11/2019, bị bắt quả tang với khối lượng 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA.
Như vậy, từ khoảng tháng 8/2019 đến tháng 11/2019, Trần Văn Q trực tiếp và giao cho Lê Bình P bán ma túy 06 lần cho 02 đối tượng, với khối lượng là 2,989 gam Ketamine và1,8725 gamMDMA, với số tiền 11.650.000đ, thu lợi bất chính số tiền 6.370.000đ; số ma túy Q giao cho P và Q đi bán bị bắt quả tang có khối lượng 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA; số ma túy thu giữ khi khám xét nhà trọ của Q có khối lượng 20,5491 gam Ketamine và 6,317 gam MDMA.Lê Bình P giúp Q bán ma túy 04 lần cho 04 đối tượng (trong đó có 03 đối tượng không rõ lai lịch, địa chỉ) với khối lượng 0,5978 gam Ketamine và 0,749 gam MDMA; số ma túybị bắt quả tang có khối lượng 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA.Nguyễn Đức Q giúp Q bán ma túy 05 lần cho 05 đối tượng (tất cả đều không rõ lai lịch, địa chỉ); số ma túybị bắt quả tang có khối lượng 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA.Nguyễn Quốc H giúp Q bán ma túy 04 lần cho 04 đối tượng (tất cả đều không rõ lai lịch, địa chỉ).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSCTN-ST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:
1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Q, Lê Bình P, Nguyễn Đức Q, Nguyễn Quốc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (08/02/2020).
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Bình P 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ và bị tạm giam (từ ngày 21/11/2019 đến ngày 08/4/2020).
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ và bị tạm giam (từ ngày 21/11/2019 đến ngày 08/4/2020).
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ và bị tạm giam (từ ngày 21/11/2019 đến ngày 08/4/2020).
Ngoài ra bản án còn quyết định về phần xử lý tang vật, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 14/9/2020 bị cáo Lê Bình P, Nguyễn Quốc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 21/9/2020 và 24/9/2020 bị cáo Nguyễn Đức Q và Trần Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Tòa án sơ thẩm xử phạt các bị cáo là đúng, các bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết gì mới, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho các bị cáo trình bày: Các bị cáo khi phạm tội còn ở tuổi chưa thành niên, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị lôi kéo rủ rê; mức hình phạt mỗi bị cáo 7 năm tù mà tòa án sơ thẩm xử phạt cho mỗi bị cáo là nghiêm khắc, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, mỗi bị cáo từ 5 năm đến 6 năm rưỡi tù.
Các bị cáo thống nhất lời bào chữa, bị cáo P xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo H xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Q xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Sau khi có đơn kháng cáo, ngày 29/9/2020 bị cáo Trần Văn Q có đơn xin rút kháng cáo, tại phiên tòa (lần 1) bị cáo trình bày việc rút kháng cáo là tự nguyện; do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Điều 348 Bộ luật tố tụng Hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Q; bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Q(đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 01/2021/HSPT-QĐ ngày 19/1/2021).
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Lê Bình P, Nguyễn Quốc H, Nguyễn Đức Q, thấy: Keatamine và MDMA là các chất ma túy gây nghiện nguy hiểm, Nhà nước độc quyền quản lý và cấm mọi tổ chức, cá nhân mua bán, tàng trữ , vận chuyển. Trong thời gian từ đầu tháng 8/2019 đến ngày 21/11/2019 Lê Bình P đã nhận từ Trần Văn Q 6 lần bán ma túy cho 2 đối tượng, với khối lượng 2,989gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA, với số tiền 11.650.000 đồng, thu lợi bất chính số tiền 6.370.000 đồng; số ma túy Q giao cho P và Q đi bán bị bắt quả tang có khối lượng 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA; số ma túy thu giữ khi khám xét nhà trọ của Q là 20,5491 gam Ketamine và 6,317 gam MMDMA. Bị cáo Lê Bình P giúp bị cáo Q bán ma túy 4 lần cho 4 đối tượng (trong đó 3 đối tượng không rõ địa chỉ) với khối lượng 0,5978 gam Ketamine và 0,749 gam MDMA; số ma túy bị bắt quả tang có khối lượng 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA tổng khối lương bị cáo PHương phải chịu 2,0719 gam Ketamine và 2,6215 MDMA. Bị cáo Nguyễn Đức Q giúp bị cáo Q bán 5 lần ma túy cho 5 đối tượng (điều không rõ lai lịch) khối lượng bị cáo Q phải chịu trách nhiệm hình sự là 1,4741 gam Ketamine và 1,8725 gam MDMA. Bị cáo Nguyễn Quốc H giúp bị cáo Q bán ma túy 4 lần cho 4 đối tượng (không rõ lai lịch). Các bị cáo P, Q, H khi phạm tội đều trên 16 tuổi. Tòa án sơ thẩm đã kết tội các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật; khi quyết định hình phạt Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào nhân thân của các bị cáo áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và các quy định pháp luật của người chưa thành niên phạm tội xử phạt mỗi bị cáo mức án 7 năm tù là không nặng. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo Q , P , H kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không có chứng cứ nào mới khác; do đó không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 08/2020/HSCTN-ST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Về án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội: Các Bị cáo P, Q, H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm số tiền 200.000, (Hai trăm ngàn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Bình P, Nguyễn Đức Q, Nguyễn Quốc H, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSCTN-ST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Bình P 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam ngày 23/2/2021, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ và bị tạm giam (từ ngày 21/11/2019 đến ngày 08/4/2020).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Q 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam ngày 23/2/2021, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ và bị tạm giam (từ ngày 21/11/2019 đến ngày 08/4/2020).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam ngày 22/2/2021, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ và bị tạm giam (từ ngày 21/11/2019 đến ngày 08/4/2020).
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 08/2020/CTNHS-ST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, về thi hành bản án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Lê Bình P, Nguyễn Đức Q, Nguyễn Quốc H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; mỗi bị cáo phải chịu 200.000, (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 285/2021/HS-PT ngày 23/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 285/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về