Bản án 284/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 284/2019/HSST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 276/2019/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 296/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn T Sinh ngày 23 tháng 4 năm 1984; tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Nơi ĐKHKTT: Tổ 5 khu 2, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở: Tổ 9 khu 5, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn H và bà: Nguyễn Thị L; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị bắt, tạm giam ngày 03/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đoàn Sỹ T Sinh ngày 07 tháng 02 năm 1985; tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.

Nơi cư trú: Tổ 3 khu 4, phường K, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đoàn T L (đã chết) và bà: Trần Thị X (đã chết); Vợ, con: chưa có; Tiền sự: không có.

Tiền án: Ngày 28/9/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Nhân thân: Ngày 25/5/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội Cưỡng đoạt tài sản.

Bị bắt, tạm giam ngày 02/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Trần Mạnh C Sinh ngày 13 tháng 7 năm 1982; tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.

Nơi cư trú: Tổ 6 khu 2, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn C (đã chết) và bà: Lê Thị H (đã chết); Vợ: Trần Thị N, có 01 con sinh năm 2006;

Tiền án, tiền sự: không có.

Bị bắt, tạm giam ngày 02/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Trần Văn H, sinh năm 1957.

Nơi cư trú: Tổ 5 khu 2, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 02/6/2019 tại khu vực tổ 20D khu 2A, phường C, thành phố H, Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện Trần Mạnh C và Đoàn Sỹ T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: tại tay phải của C 01 vỏ bao thuốc lá Hero bên trong có 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng và 01 ống thủy tinh có bầu tròn; Thu của T 01 điện thoại di động Samsung, số điện thoại 0355.793.194; 01xe mô tô Honda Wave biển số 14B1 – 393.44.

Trần Mạnh C và Đoàn Sỹ T khai nhận số ma túy bị thu giữ và 01 ống thủy tinh là mua của Trần Văn T vào khoảng 16 giờ cùng ngày với giá 500.000đ, tại khu vực đường tàu, phường T, thành phố H, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Cơ quan công an tiến hành bắt, khám xét đối với Trần Văn T tại tổ 9 khu 5, phường T, thành phố H, thu giữ 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 điện thoại Samsung màu xanh có số điện thoại 091.467.3288; 01 xe mô tô biển số 14B1 – 299.85 và 1.000.000đ.

Bản kết luận giám định số 449 và 450/GĐMT ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: 01 túi nilon bên trong có chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Mạnh C là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,357 gam; 01 túi nilon bên trong có chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,307 gam.

Bản cáo trạng số 228/CT-VKSHL ngày 26/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; Bị cáo Đoàn Sỹ T và Trần Mạnh C bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 24 đến 30 tháng tù; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Sỹ T từ 18 đến 24 tháng tù; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Mạnh C từ 15 đến 18 tháng tù. Vật chứng lượng ma túy còn lại, vỏ bao thuốc lá, 01 ống thủy tinh và 02 sim điện thoại tịch thu tiêu hủy, tịch thu số tiền 500.000đ, trả lại bị cáo T 500.000đ, tịch thu phát mại 2 điện thoại di động, trả lại xe mô tô biển số 14B1 – 393.44 cho bị cáo T.

Bị cáo Trần Mạnh C và Đoàn Sỹ T khai nhận do cùng là bạn nghiện quen biết nhau, nên khoảng 15 giờ 30 phút ngày 02/6/2019 C đi đến khu vực ngã tư Loong Toòng, thành phố H, tìm mua ma túy có gặp T, C rủ T cùng đi mua ma túy về sử dụng và đưa cho T 500.000đ, T gọi điện cho Trần Văn T hỏi mua ma túy và hẹn đến khu vực đường tàu, phường T, thành phố H. Sau đó T điều khiển xe mô tô Honda Wave biển số 14B1 – 393.44 chở C cùng đi; khi đến khu vực chợ Hồng Hà, C xuống xe đợi còn T tiếp tục đi đến chỗ hẹn mua của T 01 túi ma túy, giá 500.000đ và được cho thêm 01 nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy. Sau khi mua được ma túy T quay lại đón C và đưa cho 01 vỏ bao thuốc lá Hero bên trong có 01 túi ma túy, 01 nỏ thủy tinh rồi cùng đi tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị phát hiện bắt giữ.

Bị cáo Trần Văn T khai nhận được T gọi điện hỏi mua ma túy, đã hẹn đến khu vực đường tàu, T đi xe mô tô Honda Wave màu đỏ biển số 14B1 – 299.85 mang theo ma túy đến bán cho T 01 túi ma túy, giá 500.000đ và cho nỏ thủy tinh sử dụng ma túy. Số ma túy bị thu giữ bị cáo mua của một người không quen biết với giá 500.000đ, đã lấy sử dụng một ít, phần còn lại bị cáo chia làm hai túi đã bán cho T 01 túi, túi còn lại ít hơn bị cáo cất đi sẽ bán với giá 100.000đ. Số tiền bị thu giữ có 700.000đ của bị cáo và 300.000đ là tiền bán ma túy còn lại sau khi đã mua thẻ điện thoại hết 200.000đ.

Quá trình khai báo các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, việc bị đưa ra xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, việc khai báo tự nguyện không bị ép buộc. 02 chiếc điện thoại và xe mô tô biển số 14B1 – 393.44 sử dụng để mua bán ma túy.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn Hanh có lời khai thể hiện xe mô tô Honda Wave màu đỏ biển số 14B1 – 299.85 là của ông sử dụng để đi làm hàng ngày. T lấy đi bán ma túy ông không biết, ông đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội:

Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo Trần Mạnh C, Đoàn Sỹ T và Trần Văn T khai nhận buổi chiều ngày 02/6/2019 C đi tìm mua ma túy gặp T, rủ và đưa tiền cho T để đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng, T sử dụng xe mô tô biển số 14B1 – 393.44 của mình để chở C đi mua 01 túi ma túy, giá 500.000đ của T tại khu vực đường tàu, phường T, thành phố H.

Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh và phù hợp với lời khai của người làm chứng Nguyễn Viết Tuân, Nguyễn Hoàng Vũ về việc chứng kiến cơ quan Công an kiểm tra phát hiện, bắt, thu giữ vật chứng của bị cáo; Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 10 phút ngày 02/6/2019, biên bản nhận dạng, biên bản khám xét, bản ảnh vật chứng và bản kết luận giám định chất ma túy số 449 và 450/GĐMT ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

Như vậy có căn cứ kết luận trong khoảng thời gian từ 16 giờ đến 16 giờ 45 phút ngày 02/6/2019, tại khu vực đường tàu, phường T, thành phố H, Trần Văn T có hành vi bán 0,357 gam chất ma túy Methamphetamine cho Đoàn Sỹ T với giá 500.000đ, Trần Văn T còn có hành vi cất giữ 0,307 gam, ma túy Methamphetamine cũng nhằm mục đích để bán; và tiếp đó tại khu vực tổ 20D khu 2A, phường Cao Xanh, thành phố H, Trần Mạnh C và Đoàn Sỹ T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ; khối lượng chất ma túy bị thu giữ là 0,357 gam loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo Trần Văn T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Trần Mạnh C và Đoàn Sỹ T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Khon 1 Điều 251 quy định: Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm;

Khon 1 Điều 249 quy định: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, ma túy là hiểm họa và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm xã hội khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với xã hội cũng như đối với sức khỏe, nhưng đã bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, mua bán, cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời và thỏa mãn việc sử dụng ma túy của bản thân. Vì vậy cần thiết phải xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo Trần Văn T thực hiện hành vi phạm tội độc lập trong việc mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo Trần Mạnh C và Đoàn Sỹ T thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm là ngang nhau trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy, C là người rủ và đưa góp tiền, T là người chủ động đưa đi mua về cùng chung mục đích sử dụng ma túy. Tuy nhiên bị cáo Đoàn Sỹ T đã hai lần bị Tòa án xét xử về loại tội xâm phạm tài sản, có một bản án chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng giáo dục bản thân, mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do đó cần có mức hình phạt cao hơn.

Cần thiết phải xử lý nghiêm cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo Đoàn Sỹ T thuộc trường hợp tái phạm, được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Trần Văn T, Trần Mạnh C không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, nhận thức được việc làm của bản thân là nguy hiểm cho xã hội, đây là tình tiết được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đi với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa đề nghị áp dụng điều luật, mức hình phạt đối với bị cáo và xử lý vật chứng là có căn cứ phù hợp với nhận định của Tòa án. Tuy nhiên đối với chiếc xe mô tô biển số 14B1 – 393.44 trả lại bị cáo là không phù hợp.

[5] Về vật chứng: Lượng ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong đây là vật cấm lưu hành mà bị cáo sử dụng vào hành vi phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy. Ngoài ra còn thu giữ 02 điện thoại di động Samsung cùng các sim số điện thoại kèm theo, 01xe mô tô Honda Wave biển số 14B1 – 393.44 là tài sản riêng của bị cáo sử dụng vào hành vi phạm tội nên tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước, còn đối với 02 sim điện thoại, ống thủy tinh có bầu tròn, vỏ bao thuốc lá Hero không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 1.000.000đ trong đó có 300.000đ là tiền bán ma túy nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước, còn 700.000đ là của bị cáo Trần Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Truy thu số tiền 200.000đ bị cáo T có được từ hành vi phạm tội đã chi tiêu mua thẻ điện thoại; do đó cần tịch thu số tiền 500.000đ và trả lại cho bị cáo 500.000đ là phù hợp.

[6] Về hình phạt bổ sung không phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về án phí bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Trần Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Đoàn Sỹ T và Trần Mạnh C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 03/6/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đoàn Sỹ T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 02/6/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Mạnh C 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 02/6/2019.

Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy lượng ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong hai phong bì số 449 và 450/GĐMT ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

Tch thu tiêu hủy sim điện thoại số 0355.793.194; sim điện thoại số 091.467.3288; 01 ống thủy tinh có bầu tròn; 01 vỏ bao thuốc lá Hero.

Tch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, 01 mô tô Honda Wave gắn biển số 14B1 – 393.44, số khung 1257FY136445, số máy BC12B7136513.

Tch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ thu của bị cáo Trần Văn T. Trả lại cho bị cáo Trần Văn T số tiền 500.000đ.

(Tình trạng các vật chứng trên như biên bản giao nhận vật chứng số 220/BB-THA ngày 09/9/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H).

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn T, Đoàn Sỹ T và Trần Mạnh C mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 284/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:284/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về