Bản án 284/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 284/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 20 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 599/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 520/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: bà Đinh Thanh T, sinh năm: 1995. (có mặt).

Địa chỉ: số 16/23/2, khóm Q, phường L, thành phố X tỉnh An Giang.

Bị đơn: anh Huỳnh Văn P, sinh năm: 1994. (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Đ, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn bà Đinh Thanh T trình bày: bà và ông P quen biết, tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2014, vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Long Kiến. Thời gian chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không phù hợp, vợ chồng thường xuyên cụ cãi, ông P không tôn trọng bà, vợ chồng nhiều lần hàn gắn nhưng không được. Do mâu thuẫn nghiêm trọng nên vợ chồng không chung sống với nhau khoảng 03 tháng nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay bà yêu cầu ly hôn với ông P.

- Về con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Thị Trúc Như, sinh ngày 12/7/2015 và Huỳnh Anh Khoa, sinh ngày 28/6/2017. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có.

- Bị đơn ông Huỳnh Văn P dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên hòa giải mà vắng mặt không rõ lý do nên không thể ghi nhận ý kiến của ông P đối với yêu cầu khởi kiện của bà T.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký: thực hiện đứng, đầy đủ quy định tại các Điều 195, 196, 197, 198 và Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng:

+ Đối với nguyên đơn: thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 và Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Đối với bị đơn: đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của bị đơn. Tại phiên tòa, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử là phù hợp Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: bà Đinh Thanh T và ông Huỳnh Văn P kết hôn năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Kiến, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng mâu thuẫn và ly thân khoảng 03 tháng nay. Bà T yêu cầu ly hôn với ông P, ông P không đồng ý nhưng bà T cương quyết ly hôn, nếu buộc bà T trở lại cuộc sống chung vợ chồng cũng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

- Về con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Thị Trúc N, sinh ngày 12/7/2015 và Huỳnh Anh K, sinh ngày 28/6/2017. Hiện các cháu sống chung với bà T, bà T yêu cầu tiếp tục nuôi con, yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên tại phiên tòa bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, thời gian vợ chồng ly thân, các cháu sống chung với bà T vẫn phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và cháu K hiện dưới 36 tháng tuổi, để ổn định cuộc sống cho các cháu nên tiếp tục giao các cháu cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng. Đối với việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà T là tự nguyện nên được chấp nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không đề cập giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự xem xét, quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đinh Thanh T đối với ông Huỳnh Văn P.

- Bà Đinh Thanh T được tiếp tục nuôi dưỡng các cháu Huỳnh Thị Trúc N và Huỳnh Anh K, sinh ngày 28/6/2017. Ông Huỳnh Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Bà Đinh Thanh T yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Văn P. Ông P có nơi cư trú tại ấp Đ, xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn ông Huỳnh Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: bà Đinh Thanh T và ông Huỳnh Văn P xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cự cãi do tính tình không phù hợp, cả hai nhiều lần hàn gắn nhưng không được, mâu thuẫn giữa ông, bà kéo dài, ông P không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Bà T xác định không còn tình cảm với ông P, nếu tiếp tục chung sống với ông P thì không còn hạnh phúc.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tạo điều kiện cho vợ chồng hàn gắn nhưng không được, ông P cũng không tham gia các phiên hòa giải, nên Tòa án đã lập biên bản không tiến hành hòa giải được.

Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của bà T và ông P là trầm trọng, không thể tiếp tục, cả hai không muốn hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Thị Trúc N, sinh ngày 12/7/2015 và Huỳnh Anh K, sinh ngày 28/6/2017 hiện đang sống với bà T. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, trong thời gian các cháu sống với bà T, cháu được chăm sóc, giáo dục tốt, ổn định về chỗ ở, tâm tư, tình cảm của các cháu gắn liền với mẹ, cháu K hiện dưới 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc của mẹ, mặt khác ông P cũng không có ý kiến đối với quyền nuôi dưỡng con chung. Tại biên bản xác minh ngày 10/9/2019 xác định bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng các cháu. Để đảm bảo cuộc sống ổn định cho các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao các cháu cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: tại phiên tòa bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là sự tự nguyện của bà T và phù hợp Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét buộc ông P cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: ghi nhận ý kiến của bà T trình bày không có nên không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: bà T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Các Điều 28, 35, 144, 147, 227, 228, 235, 244 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thanh T.

- Về quan hệ hôn nhân: bà Đinh Thanh T được ly hôn với ông Huỳnh Văn P. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 69/2015, quyển số 01/2015 ngày 11/6/2015 do UBND xã K, huyện C, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: bà Đinh Thanh T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Thị Trúc Như, sinh ngày 12/7/2015 và Huỳnh Anh Khoa, sinh ngày 28/6/2017. Ông Huỳnh Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông P không trực tiếp nuôi con chung nhưng ông có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông P thực hiện quyền này

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: không xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: ghi nhận bà Đinh Thanh T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Đinh Thanh T và ông Huỳnh Văn P vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Đinh Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0013276 ngày 03/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Bà T đã nộp xong.

Bà Đinh Thanh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Ông Huỳnh Văn P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 284/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:284/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về