Bản án 284/2018/HS-ST ngày 05/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 284/2018/HS-ST NGÀY 05/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 267/2018/TLST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 289/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo: 1. Lê Sỹ L, sinh năm 1996 tại tỉnh Bình Thuận; thường trú: Khu phố L H 1, thị trấn L T, huyện T L, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: Khu phố H, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Sỹ Th, sinh năm 1970 và bà Cao Thị Ph, sinh năm 1970; bị cáo có 01 chị ruột, sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/5/2018 cho đến nay, có mặt.

2. Trần Văn S, sinh năm 1992 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm B, xã L Th, huyện Y Th, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Số 366/9 khu phố Ch Th, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Đ (đã chết) và bà Lê Thị Th, sinh năm 1969; bị cáo có 01 anh ruột, sinh năm 1990; bị cáo có vợ tên là Trần Thị Kim H, sinh năm 1992, bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 15/7/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Th A, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm về tội Cưỡng đoạt tài sản theo bản án Bản án số 210/2016/HSST; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/5/2018 cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trần Văn H, sinh năm 1964; thường trú: Thôn M, xã Gi A, huyện T L, tỉnh Bình Thuận, vắng mặt.

2. Bà Trần Thị M, sinh năm 1996; thường trú: Thôn M, xã Gi A, huyện T L, tỉnh Bình Thuận; tạm trú: Số 27/2, khu phố H, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1973; thường trú: Số 75B đường số M, khu phố M, phường Ph B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Số 845A, tổ B, khu phố B Th 1, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 21/5/2018 tại quán nước mía trước cổng nghĩa trang liệt sỹ thị xã D A, tỉnh Bình Dương thuộc khu phố Đ T, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, Lê Sỹ L rủ Trần Văn S đi mua ma túy đá về sử dụng thì S đồng ý. Do không có tiền nên S điện thoại cho người bạn tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch) đến quán nước mía và mượn Đ 300.000 đồng (S không nói cho Đ biết là mượn để đi mua ma túy). Khi mượn được tiền S đưa cho L để đi mua ma túy và nhờ Đ đi thuê khách sạn giùm. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô biển số 86B7-11956 đi đến khu dân cư thuộc phường T B, thị xã D A mua 300.000 đồng được 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch). Mua ma túy xong L cất vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô biển số 86B7-11956 đi đến quán nước mía đón S, rồi chở S đến khách sạn H Tr 3 nơi mà Đ đã thuê giùm S phòng A001. Do có việc riêng nên L về phòng trọ ở Th Đ, còn một mình S ở lại khách sạn. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì L quay lại phòng A001 của khách sạn H Tr 3. L lấy ma túy đang để trên bàn chiết ra một phần cho vào bộ sử dụng ma túy để S và L cùng sử dụng, phần còn lại L cất vào trong hộp để lại trên bàn. Sau đó Công an phường T Đ H vào kiểm tra khách sạn phát hiện L và S đang sử dụng ma túy và tàng trữ chất ma túy nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 313/MT-PC54 ngày 28/5/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín, trọng lượng 0,1406g loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận giám định 313/MT-PC54 ngày 28/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho L tại khu dân cư thuộc phường T B, thị xã D A, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số 278/CT-VKS-DA ngày 30 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Lê Sỹ L, Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Sỹ L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Văn S từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng năm tù, đồng thời tổng hợp hình phạt 01 năm 06 tháng tù của Bản án số 210/2016/HSST ngày15/7/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Th A, tỉnh Bình Dương.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô biển số 86B7-11956 do ông Hồ Văn H đứng tên chủ sở hữu hợp pháp, ông H không biết Lê Sỹ L sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã trả lại xe cho ông H.

- Đối 01 (một) bì thư niêm phong số 313/PC54 chứa Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 0,0807g là vật cấm lưu thông và 01 (một) bộ sử dụng ma túy, 02 (hai) hộp quẹt, 01 (một) họp nhựa màu hồng, sim số 0966612253 sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202 sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về nội dung: Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 21/5/2018 tại quán nước mía trước cổng nghĩa trang liệt sỹ thị xã D A, tỉnh Bình Dương thuộc khu phố Đ T, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, Lê Sỹ L rủ Trần Văn S đi mua ma túy đá về sử dụng thì S đồng ý. Do không có tiền nên S điện thoại cho người bạn tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch) đến quán nước mía và mượn Đ 300.000 đồng (S không nói cho Đ biết là mượn để đi mua ma túy). Khi mượn được tiền S đưa cho L để đi mua ma túy và nhờ Đ đi thuê khách sạn giùm. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô biển số 86B7-11956 đi đến khu dân cư thuộc phường T B, thị xã D A mua 300.000 đồng được 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch). Mua ma túy xong L cất vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô biển số 86B7-11956 đi đến quán nước mía đón S, rồi chở S đến khách sạn H Tr 3 nơi mà Đ đã thuê giùm S phòng A001. Do có việc riêng nên L về phòng trọ ở Th Đ, còn một mình S ở lại khách sạn. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì L quay lại phòng A001 của khách sạn H Tr 3. L lấy ma túy đang để trên bàn chiết ra một phần cho vào bộ sử dụng ma túy để S và L cùng sử dụng, phần còn lại L cất vào trong hộp để lại trên bàn. Sau đó Công an phường T Đ H vào kiểm tra khách sạn phát hiện L và S đang sử dụng ma túy và tàng trữ chất ma túy nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 313/MT-PC54 ngày 28/5/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín, trọng lượng 0,1406g loại Methamphetamine.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này chưa xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500gam.

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; …”

Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Trần Văn S, Lê Sỹ L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Trần Văn S phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên tổng hợp hình phạt của án án cho bị cáo hưởng án treo đồng thời khấu trừ thời gian tạm giam trong vụ án cho bị cáo được hưởng án treo.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, Cáo trạng số 278/CT-VKS-DA ngày 30 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo Lê Sỹ L, Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

 [3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có ma túy sử dụng các bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

 [4] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Bị cáo S là người đưa tiền cho bị cáo L đi mua ma túy về cho cả hai cùng sử dụng, bị cáo L là người rủ bị cáo S đi mua ma túy.

 [5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 15/7/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Th A, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm về tội Cưỡng đoạt tài sản theo bản án Bản án số 210/2016/HSST, bị cáo đang chấp hành thời gian thử thách lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới nên chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hình sự là “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [7] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn định. Tuy nhiên bị cáo S hiện nuôi con nhỏ nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho L tại khu dân cư thuộc phường T B, thị xã D A, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

 [8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô biển số 86B7-11956 do ông Hồ Văn H đứng tên chủ sở hữu hợp pháp, ông H không biết Lê Sỹ L sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã trả lại xe cho ông H là đúng theo quy định của pháp luật.

- Đối 01 (một) bì thư niêm phong số 313/PC54 chứa Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 0,0807g là vật cấm lưu thông và 01 (một) bộ sử dụng ma túy, 02 (hai) hộp quẹt, 01 (một) họp nhựa màu hồng, sim số 0966612253 sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202 sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

 [9] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với các bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng, mức hình phạt và xử lý vật chứng. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

 [10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Sỹ L, Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Sỹ L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2018.

1.2 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Văn S 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù theo Bản án số 210/2016/HSST ngày 15/7/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Th A, tỉnh Bình Dương thành hình phạt chung của 02 bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 21/5/2018 được khấu trừ thời giam tạm giam từ ngày 25/11/2015 đến ngày 15/7/2016.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong số 313/PC54 chứa Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 0,0807g và 01 (một) bộ sử dụng ma túy, 02 (hai) hộp quẹt, 01 (một) hộp nhựa màu hồng, sim số 0966612253.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202, số IMEI: 356033/03/110629/8. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Lê Sỹ L, Trần Văn S, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 284/2018/HS-ST ngày 05/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:284/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về