Bản án 283/2020/HSST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 283/2020/HSST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 263/2020/TLST-HS ngày 01-9-2020 theo Quyết Đđưa vụ án ra xét xử số 263/2020/QĐ-HSST ngày 09-9-2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Thúc Đ, sinh năm 1978 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số nhà 13C 5 tầng số 2 T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định.; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Huy L và bà Dương Thị K; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 09-02-2018, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (ra trại ngày 24-01-2020); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17-4-1995, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”; 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” và phạt cảnh cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân”. Ngày 15-7-1997, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Ngày 12-5-1999, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân” và 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Ngày 03-12-2003, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 30-10-2006, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tháng 4 năm 2013 áp dụng biện phát xử lý hành chính đưa đi cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10 tháng 7 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Trung K và ông Nguyễn Xuân A (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 10-7-2020, Tổ công tác Công an phường Trần Đăng Ninh, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 11A/157 T, phường T, thành phố N phát hiện Vũ Thúc Đ đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra Đđã thả từ tay phải xuống đất 01 gói nhỏ ni lông màu đen, Tổ công tác đã thu giữ kịp thời, mở kiểm tra trong là lớp giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Đ khai là gói Heroine). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng đưa Đ và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường T, thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật.

Bản kết luận giám Đsố 779/GĐKTHS ngày 14-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu vật thu giữ của Vũ Thúc Đ được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng: 0,129 gam (không phẩy một trăm hai mươi chín gam).

Tại Cơ quan điều tra: Vũ Thúc Đ đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ như sau: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 10-7-2020, Đ đi bộ một mình từ nhà vào khu vực trong ngõ 157 đường T, thành phố N gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng cầm trên tay phải đi về để sử dụng. Khi Đ đi về đến khu vực trước cửa số nhà 11A/157 T, phường T, thành phố N thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 262/CT-VKSTPNĐ ngày 01-9-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Vũ Thúc Đvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy Đtại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Thúc Đ xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Thúc Đtheo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Thúc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Vũ Thúc Đ từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù;

không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, Quyết Đ tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Thúc Đcó trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 10-7-2020, tại khu vực trước cửa số nhà 11A/157 T, phường T, thành phố N, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,129 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết Đhình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đtại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và là người có nhân thân rất xấu đã nhiều lần bị Toà án đưa ra xét xử.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 779/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy Đ của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy Đ tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy Đvề mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Thúc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Thúc Đ30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 10 tháng 7 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 779/GĐKTHS (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí: Bị cáo Vũ Thúc Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Thúc Đ được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy Đtại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 283/2020/HSST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:283/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về