Bản án 282/2019/DS-PT ngày 29/10/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 282/2019/DS-PT NGÀY 29/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI 

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 265/2019/TLPT-DS ngày 16 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 25/2019/DS-ST ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 263/2019/QĐ-PT ngày 23 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị S, sinh năm 1962;

Đa chỉ: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An.

- Bị đơn:

1. Ông Phan Văn N, sinh năm 1946;

2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1951;

Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện V, tỉnh Long An.

- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H - Bị đơn.

(Bà S, bà H có mặt; ông N vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị S trình bày:

Năm 2013 bà có làm chủ thảo dây hụi mùa 20.000.000 đồng, mỗi năm khui 02 lần, vào vụ thu hoạch lúa, hụi khui ngày 10/02/2013 âm lịch (al), mãn hụi vào ngày 20/02/2019 (al), có 13 thành viên, vợ chồng ông N, bà H tham gia 02 phần. Ngày 19/3/2014 (al) và ngày 15/02/2016 (al) ông N bỏ thăm hốt hụi. Sau khi hốt hụi ông N đóng hụi chết đầy đủ, đến kỳ cuối là tháng 02 năm 2019 (al) thì không đóng nữa. Bà gửi đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã T hòa giải, sau khi hòa giải thì vợ chồng ông N đã đóng được 30.000.000 đồng, hiện còn thiếu 10.000.000 đồng. Bà khởi kiện yêu cầu ông Phan Văn N và bà Nguyễn Thị H trả số tiền hụi còn thiếu là10.000.000 đồng.

Về yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị H: Bà S không đồng ý, dây hụi 10.000.000 đồng khui vào tháng 6 năm 2011 (al), dây hụi gồm 14 phần, bà đã giao hụi đầy đủ cho bà H 14 phần, có danh sách hụi 14 người, có biên nhận 14 người và bà H có viết biên nhận cho bà. Tuy nhiên, trong lúc dây hụi chưa mãn bà H có báo là bà giao thiếu 02 phần và có cự cải qua lại với nhau, bà H không đưa ra chứng cứ về việc bà chỉ giao 12 người nhưng do để giữ uy tín việc làm chủ thảo nên bà có thỏa thuận với bà H mỗi người chịu 01 phần nên bà có giao thêm cho bà H 01 phần vào năm 2013. Sau đó, bà H đóng tiền hụi chết đầy đủ đến khi hụi mãn mà không ai tranh chấp, biên nhận do bà H giao bà không còn giữ.

Bị đơn:

- Bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà là vợ của ông Phan Văn N, khi tham gia hụi thì bà trực tiếp tham gia nhưng ghi tên chồng bà. Bà thống nhất lời trình bày về việc bà có tham gia dây hụi 20.000.000 đồng do bà S làm chủ thảo nêu trên và hiện còn thiếu số tiền hụi chết là 10.000.000 đồng.

Ngày 20/5/2019 bà Nguyễn Thị H có yêu cầu phản tố về việc yêu cầu bà Phạm Thị S trả số tiền 10.000.000 đồng. Nội dung cụ thể như sau:

Vào năm 2012 bà có tham gia dây hụi vụ 10.000.000 đồng do bà Phạm Thị S làm chủ thảo, bà tham gia 04 phần, bắt đầu khui vào tháng 02 năm 2012 (al), dây hụi thực tế 14 phần nhưng do bà là người hốt đầu tiên, lúc đó chỉ có 12 phần, bà S giao danh sách hụi 12 phần, khi hốt hụi bà S có giấy giao tiền 12 phần, bà cũng có viết biên nhận cho bà S. Hai năm sau bà phát hiện dây hụi là 14 phần, bà S giao thiếu 02 phần hụi nên yêu cầu bà S giao đủ cho bà 02 phần hụi còn lại, sau đó bà S chỉ giao cho bà 01 phần với số tiền 5.900.000 đồng, phần còn lại bà S không giao nên tổng cộng bà hốt lần đầu dây hụi chỉ có 13 phần. Bà đã đóng hụi chết đủ 14 phần để bà S giao hụi đầy đủ, đến dây hụi 20.000.000 đồng bà mới cấn trừ, hụi mãn vào năm 2018. Việc bà hốt hụi lần thứ nhất có 12 thành viên chỉ có bà và bà S biết, bà có ghi tên vào sổ, những thành viên còn lại đều biết 14 người.

Bà Nguyễn Thị H yêu cầu bà Phạm Thị S trả 10.000.000 đồng bà đã đóng dư để cấn trừ qua dây hụi 20.000.000 đồng mà bà S khởi kiện nên bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà S.

- Ông Phan Văn N trình bày:

Ông là chồng của bà Nguyễn Thị H, việc tham gia hụi với bà S là do bà H trực tiếp tham gia nhưng bà H ghi tên ông. Ông cũng biết năm 2013 bà H có tham gia dây hụi mùa 20.000.000 đồng và còn thiếu bà S 10.000.000 đồng tiền hụi chết. Nhưng do trước đây bà H có đóng dư 10.000.000 đồng tiền hụi chết của dây hụi 10.000.000 đồng cho bà S nên ông cũng yêu cầu cấn trừ. Ông thống nhất yêu cầu phản tố của bà H và không đồng ý trả cho bà S 10.000.000 đồng.

Ti bản án dân sự sơ thẩm số 25/2019/DS-ST ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị S về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị H và ông Phan Văn N liên đới trả 10.000.000 đồng.

Buộc bà Nguyễn Thị H và ông Phan Văn N liên đới trả cho bà Phạm Thị S 10.000.000 đồng.

2. Bác yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu bà Phạm Thị S trả 10.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 06/8/2019, bị đơn bà Nguyễn Thị H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng buộc bà S trả cho bà 10.000.000 đồng tiền đóng hụi dư của dây hụi 10.000.000 đồng vào năm 2012.

Ti phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Kim sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm:

- Những người tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong thời hạn luật quy định và hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bà H có yêu cầu phản tố yêu cầu bà S trả 10.000.000 đồng tiền đóng hụi dư của dây hụi 10.000.000 đồng vào năm 2012 nhưng bà H không có chứng cứ chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến và quan điểm của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận và nghị án, xét thấy:

[1] Về tố tụng Bị đơn ông Phan Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị H yêu cầu bà Phạm Thị S trả 10.000.000 đồng bà đã đóng dư của dây hụi 10.000.000 đồng.

[2.1] Bà Nguyễn Thị H cho rằng vào năm 2012 bà có tham gia dây hụi vụ 10.000.000 đồng do bà Phạm Thị S làm chủ thảo, bà tham gia 04 phần, bà có hốt lần đầu tiên nhưng chỉ với 12 phần, 03 lần sau bà hốt với 14 phần. Khi hốt hụi lần đầu tiên bà S có đưa danh sách hụi 12 người, hiện tại đã mất và bà S có đưa giấy hốt hụi 12 người nhưng bà đã đưa cho con bà S là Nguyễn Văn Cu T đưa lại bà S. Bà S và Nguyễn Văn Cu T (con của bà S) không thừa nhận và bà H không có chứng cứ gì chứng minh. Hơn nữa những người tham gia dây hụi như bà Nguyễn Thị G, bà Lưu Thị H và bà Bùi Thị M đều khẳng định dây hụi trên gồm 14 phần.

[2.2] Ngoài ra, bà H còn trình bày, do bà S đã giao hụi cho bà chỉ với 12 phần nên năm 2013 mới giao thêm cho bà 01 phần nữa là 5.900.000 đồng. Còn trường hợp đã giao đủ 14 phần thì bà S không thể giao cho bà thêm và khi nhận tiền hụi từ bà S bà có viết biên nhận giao cho bà S nên yêu cầu bà S đưa biên nhận cho bà để làm sáng tỏ sự việc. Còn bà S thừa nhận có giao thêm cho bà H 01 phần nhưng do để giữ uy tín tránh phát sinh tranh chấp nên bà giao thêm cho bà H 01 phần hụi nữa là 15 phần chứ không phải do trước đây giao thiếu, còn biên nhận do bà H giao bà không còn giữ nên không thể cung cấp. Mặt khác, bà H đã đóng hụi chết đầy đủ từ lần thứ hai khui hụi và cho rằng bà S giao chỉ 13 phần nhưng trong 04 phần thì có 01 phần bà H hốt chót và bà H cũng đã đóng đến hụi chót. Nên có cơ sở khẳng định dây hụi trên gồm 14 phần hụi, hụi đã mãn và khi mãn không ai tranh chấp, bà H không đưa ra được chứng cứ chứng minh bà đã đóng hụi chết dư một phần 10.000.000 đồng hay bà S giao hụi thiếu một phần hụi nên lời trình bày và yêu cầu của bà H là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà H là có căn cứ.

[3] Bà H kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ nào khác so với án sơ thẩm nên kháng cáo của bà H không được Hội đồng xét xử chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của bà H là có căn cứ.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bà H kháng cáo phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Nhưng bà H có đơn xin miễn án phí do thuộc trường hợp người cao tuổi nên được chấp nhận miễn án phí cho bà H theo quy định tại Điều 12, 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 25/2019/DS-ST ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng;

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị H.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 282/2019/DS-PT ngày 29/10/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi 

Số hiệu:282/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về