Bản án 28/2021/HSST ngày 16/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

 BẢN ÁN 28/2021/HSST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16/6/2021 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2021/HSST ngày 21/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 04/6/2021 đối với các bị cáo

 1. Họ và tên: Sầm Văn T; tên gọi khác: không; sinh năm 1985 tại Nghệ An; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Thôn 1, xã Tiền Phong, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Sầm Văn Đ, sinh năm 1954 và con bà Lang Thị H, sinh năm 1952; Anh em ruột có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Lương Thị Nh, sinh năm 1988; Con: bị có 02 con lớn nhất sinh năm 2006 nhỏ nhất sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn từ ngày 30 tháng 01 năm 2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Lù Văn H; tên gọi khác: không; sinh năm 1984 tại Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản Nà Hừ 2, xã Bum Nưa, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12: dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Lù Văn H, sinh năm 1956 và con bà Lý Thị B, sinh năm 1956; Anh em ruột có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Mào Thị S, sinh năm 1986; Con: bị có 03 con lớn nhất sinh năm 2004 nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/01/2021 đến ngày 08/02/2021, được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Mào Thị S, sinh năm 1986 Trú tại: Bản Nà Hừ 2, xã Bum Nưa, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 30/01/2021 Sầm Văn T gọi điện rủ Lù Văn H lên bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu để tìm mua ma túy sử dụng. Sau đó H đi xe máy nhãn hiệu Honda loại Wave S, màu sơn trắng, nâu, sám BKS 25 M1 – 063.69 đón T lên bản Pa Mu, xã Hua Bum. Đến nơi T và H gặp một người đàn ông không rõ lai lịch, T đưa 100.000 đồng cho H để H mua ma túy với người đàn ông đó. H cầm tiền và mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Mua bán xong, T và H đi vào bụi dậm ven đường và tách lấy một ít Heroine rồi cùng nhau sử dụng. Số Heroine còn lại T gói lại rồi cầm trên tay phải, ngồi sau xe máy do H điều khiển từ bản Pa Mu để đi về nhà. Hồi 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến Km 295 + 900 quốc lộ 4H thuộc địa phận bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu thì T và H bị tổ công tác đội cảnh sát giao thông công an huyện Nậm Nhùn phát hiện bắt quả tang thu giữ gói Heroine cùng chiếc xe máy và 02 chiếc điện thoại mà T và H đã sử dụng liên lạc với nhau trước đó để cùng nhau đi mua ma túy.

Ngày 30/01/2021 Công an huyện Nậm Nhùn tiến hành lập biên bản niêm phong vật chứng bị tạm giữ của Sầm Văn T và Lù Văn H 01 gói chất bột khô màu trắng thuộc vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy và tang vật 02 chiếc điện thoại do Sầm Văn T và Lù Văn H dùng để liên lạc với nhau đi mua ma túy.

Cùng ngày 30/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nậm Nhùn đã mở niêm phong xác định khối lượng và lấy toàn bộ khối lượng 0,21 gam chất bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ của Sầm Văn T và Lù Văn H làm mẫu giám định chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 173/GĐ- KTHS 02/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 Mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Sầm Văn T và Lù Văn H gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine; (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa Sầm Văn T và Lù Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong vụ án.

Cáo trạng số 20/CT - VKS ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm):

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H mỗi bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù; áp dụng khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo về án phí các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, trước Hội đồng xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối hận về hành vi của mình đã gây ra. Tại phần tranh luận, các bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì, các bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của các bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện Nậm Nhùn, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Do bản thân các bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H nghiện ma tuý, nên ngày 30/01/2021, Sầm Văn đã rủ Lù Văn H đến bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn tìm mua Hêrôin để cùng nhau sử dụng. Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày tổ công tác Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu phát hiện và bắt quả tang Sầm Văn T và Lù Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ vật chứng của Sầm Văn T và Lù Văn H gồm:

01 gói Hêrôin có khối lượng 0,21 gam và 01 xe mô tô và 02 chiếc điện thoại của T và H để liên lạc mua ma túy.

Do vậy, hành vi trên của bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, đây là vụ án đồng phạm giản đơn các bị cáo cùng nhau thực hiện, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa, ma tuý còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui của gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì bản thân nghiện ma tuý nên các bị cáo đã cố ý thực hiện.

[4]. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên toà và trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sống ở khu vực kinh tế khó khăn. Do vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

[5]. Về vật chứng của vụ án:

01 gói nhỏ Hêrôin có khối lượng 0,21 gam thu giữ của các bị cáo Sầm Văn Tuấn và Lù Văn Hưng ngày 30/01/2021 đã gửi toàn bộ đi giám định không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Cần tịch thu hóa giá sung công quỹ theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng loại OPPOA5S thu giữ của Sầm Văn T mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh dương, máy đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng loại máy SAMSUNG GALASY J4+ mặt trước màu đen, mặt sau màu vàng đồng mặt trước bị vỡ màn hình máy đã qua sử dụng thu giữ của Lù Văn H.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại Wave S, màu sơn Trắng - Đen - xám, BKS 25M1- 063.69, số khung RLHJC5219CY300219, số máy JC52E1320243 thu giữ của Lù Văn H , xác định đây là tài sản chung của gia đình bị cáo và vợ là chị Mào Thị S. Do khi Lù Văn H dùng xe máy đi mua ma túy chị S cũng không biết việc bị cáo dùng vào việc phạm tội. Xét thấy chiếc xe máy thu giữ của bị cáo là tài sản chung của gia đình, là phương tiện đi lại phục vụ trong cuộc sống cho gia đình chị Mào Thị S. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa chị Mào Thị S cũng có đơn xin lại chiếc xe máy nói trên, nên cần trả lại cho chị Mào Thị S là vợ bị cáo là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án Sầm Văn T và Lù Văn H khai nguồn gốc số Heroine các bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Mông không rõ lai lịch, địa chỉ. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.

[6]. Về án phí: Áp dụng điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo Sầm Văn Tuấn phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lù Văn H gia đình thuộc hộ nghèo nên cần áp dụng điểm đ Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù Văn H;

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Sầm Văn T và Lù Văn H.

Xử phạt bị cáo Sầm Văn T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/01/2021.

Xử phạt bị cáo Lù Văn H 01 (Một) năm tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian bị bắt tạm giữ từ ngày 30/01/2021 đến ngày 08/02/2021. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu hóa giá sung công quỹ 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng loại OPPO A5S thu giữ của Sầm Văn T mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh dương, máy đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng loại máy SAMSUNG GALASY J4+ mặt trước màu đen, mặt sau màu vàng đồng mặt trước bị vỡ màn hình thu giữ của Lù Văn H máy đã qua sử dụng.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho chị Mào Thị S, sinh năm 1986 trú tại bản Nà Hừ 2, xã Bum Nua, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu là người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan trong vụ án 01 xe máy nhãn hiệu HONDA nhãn hiệu Wave S, màu sơn Trắng - Đen - xám, BKS 25M1- 063.69, số khung RLHJC5219CY300219, số máy JC52E1320243 cho chi Mào Thị Sơn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 09 giờ 20 phút ngày 25/5/2021 giữa Cơ quan Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu với Chi cục thi hành án dân sự huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí: Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo Sầm Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng điểm đ Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù Văn H.

Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 28/2021/HSST ngày 16/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:28/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về