Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Trong ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 506/2020/TLST-HNGĐ ngày 16/11/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/03/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31/03/2021 và Thông báo dời ngày xét xử số 226/TB-TA ngày 8/4/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Bảo T, sinh năm 1994 Địa chỉ: Số A, ấp M, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Bị đơn: Anh Phạm Thanh Đ, sinh năm 1989 Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 12/11/2020, nguyên đơn chị Đặng Thị Bảo T trình bày: Vào năm 2011, chị với anh Đ tự nguyện chung sống với nhau, đến năm 2015 anh chị đi đang ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 31/03/2015. Quá trình chung sống, anh chị có một con chung là cháu Phạm Thị Thùy D, sinh ngày 16/12/2011, hiện nay đang sống chung với chị. Sau đó anh chị phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải nhau nên anh chị không còn chung sống với nhau từ năm 2015 đến nay. Nay nhận thấy vợ chồng sống chung không hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh Đ, xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Thanh Đ đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự và quan hệ pháp luật đang tranh chấp là chính xác, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T và anh Đ được ly hôn, giao con chung cho chị T nuôi, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[2] Anh Phạm Thanh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng anh vắng mặt đến lần thứ hai mà không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, chị T và đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh Đ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.

[3] Năm 2015, chị Đặng Thị Bảo T và anh Phạm Thanh Đ tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 31/03/2015. Vì vậy, hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị T cho rằng sau một thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn do anh Đ không quan tâm đến vợ con, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên anh chị không còn chung sống với nhau từ năm 2015 cho đến nay. Nay chị xin ly hôn với anh Đ. Thấy rằng: Hôn nhân giữa chị T và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã không còn chung sống với nhau thời gian dài nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, tại phiên tòa chị T cương quyết xin ly hôn với anh Đ, anh Đ không có văn bản trình bày ý kiến của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, cho chị và anh Đ được ly hôn để mỗi người tạo lập cuộc sống mới.

[4] Về con chung: Chị T và anh Đ có một người con chung là cháu Phạm Thị Thùy D, sinh ngày 16/12/2011, hiện nay cháu D đang sống chung với chị T. Chị T yêu cầu được nuôi cháu D đến tuổi trưởng thành, anh Đ không có văn bản trình bày ý kiến của mình. Để ổn định tâm lý và môi trường sống cho cháu D. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu D cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu nên anh Đ không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Đ, không ai được quyền ngăn cản.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Như đã nhận định nêu trên, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 2 Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Bảo T.

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Bảo T được ly hôn với anh Phạm Thanh Đ.

2/. Về con chung: Giao cháu Phạm Thị Thùy D, sinh ngày 16/12/2011 cho Đặng Thị Bảo T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Phạm Thanh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

4/. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Phạm Thanh Đ không ai được quyền ngăn cản.

5/. Về tài sản chung và nợ chung: Đặng Thị Bảo T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

6/. Về án phí: Đặng Thị Bảo T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0006777 ngày 12/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Chị T đã nộp đủ tiền án phí. Anh Phạm Thanh Đ không phải chịu án phí.

7/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

8/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về