Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 09/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 337/2020/TLST- HNGĐ ngày 06/10/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 53/2021/QĐST- HNGĐ ngày 24/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: Số 222, tổ 21, ấp Phú Bình, xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; có mặt

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: Tổ 19, ấp Phú Bình, xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 17/8/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Mộng T trình bày: Về hôn nhân tôi với anh Nguyễn Thanh T quen biết nhau, cha mẹ hai bên đồng ý, tôi với anh T tổ chức lễ cưới vào năm 2016, chúng tôi đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số: 32/2016, ngày 21/6/2016. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc. Sau đó đến năm 2018 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T hay rựơu chè, cờ bạc, ngoại tình không lo kinh tế cuộc sống gia đình. Tôi với anh T đã không còn sống chung từ 03 năm nay. Tình cảm của tôi đối với anh T không còn, yêu cầu ly hôn với anh T.

- Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, tôi và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014, hiện con đang sống với anh T, khi ly hôn tôi đồng ý giao con cho anh T nuôi dưỡng và tôi không cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng của cháu L muốn được sống với anh T.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tôi với anh T không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thanh T đã được Tòa án tống đạt các văn bản hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do;

Biên bản xác minh ngày 25/02/2021 của bà Trần Thị U là chủ tịch Hội phụ nữ xã Phú Lộc cung cấp về tình trạng hôn nhân của chị T với anh T thể hiện: Chị T với anh T cưới nhau vào năm 2014, hai người đi đăng ký kết hôn trễ hạn vào năm 2016 tại UBND xã Phú Lộc. Về tình cảm hai người đã xảy ra mâu thuẫn gần 04 năm nay, nguyên nhân là do khó khăn về kinh tế, chị T với anh T đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Hội phụ nữ xã có gặp anh T động viên để hai người đoàn tụ, anh T có gặp chị T để hàn gắn lại nhưng chị T không đồng ý. Về tình cảm giữa chị T với anh T đã mâu thuẫn nghiêm trọng, sống không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị T với anh T có một đứa con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014 đang sống với anh T. Tòa án cho hai người ly hôn là hợp lý.

Biên bản xác minh ngày 25/02/2021 Công an xã Phú Lộc cung cấp: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1991 có hộ khẩu thường trú chung với người mẹ là bà Lê Thị Đ tại tổ 19, ấp Phú Bình, xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, anh T vẫn còn hộ khẩu tại địa chỉ trên, Tết Nguyên đán năm 2021 anh T có về địa phương.

Toà án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản hòa giải nhưng không thực hiện được do anh T vắng mặt.

Hội đồng xét xử công bố biên bản xác minh ngày 25/02/2021 của chủ tịch Hội phụ nữ xã Phú Lộc, biên bản xác minh của Công an xã Phú Lộc ngày 25/02/2021, biên bản không lấy được lời khai của anh T ngày 25/02/2021, biên bản lấy lời khai của cháu Nguyễn Thành L ngày 25/02/2021.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu, anh T vắng mặt, Chị T xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác; anh T không cung cấp chứng cứ.

- Ý kiến của Kiểm sát viên:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, đầy đủ quy định Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Ý kiến về giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Mộng T và anh Nguyễn Thanh T có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, năm 2017 giữa chị T với anh T có phát sinh mâu thuẫn. Chị T với anh T đã không còn sống chung thời gian dài. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị T với anh T có 01 con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014, hiện cháu đang sống với anh T, chị T đồng ý giao con cho anh T nuôi dưỡng và T không cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền: Chị Nguyễn Thị Mộng T khởi kiện “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” với anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: Tổ 18, ấp Phú Bình, xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Xét, quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí và Tòa án thụ lý giải quyết.

Biên bản xác minh ngày 25/02/2021 Công an xã Phú Lộc cung cấp: Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1991 có hộ khẩu thường trú chung với người mẹ là bà Lê Thị Đ tại tổ 19, ấp Phú Bình, xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, anh T vẫn còn hộ khẩu tại địa chỉ trên, Tết Nguyên đán năm 2021 anh T có về địa phương Sự vắng mặt của đương sự: Anh Nguyễn Thanh T vắng mặt, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mộng T với anh Nguyễn Thanh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32/2016, ngày 21/6/2016. Xét, hôn nhân giữa chị Tuyền và anh Tài là hợp pháp.

Chị T khai, quá trình chung sống chị T và anh T phát sinh mẫu thuẫn, nguyên nhân là do anh T hay rựơu chè, cờ bạc, ngoại tình không lo kinh tế cuộc sống gia đình. Chị T với anh T đã không còn sống chung từ 03 năm nay. Tình cảm của chị T đối với anh T không còn, yêu cầu ly hôn với anh T.

Biên bản xác minh ngày 25/02/2021 của bà Trần Thị U là chủ tịch Hội phụ nữ xã Phú Lộc cung cấp về tình trạng hôn nhân của chị T với anh T thể hiện: Chị T với anh T cưới nhau vào năm 2014, hai người đi đăng ký kết hôn trễ hạn vào năm 2016 tại UBND xã Phú Lộc. Về tình cảm hai người đã xảy ra mâu thuẫn gần 04 năm nay, nguyên nhân là do khó khăn về kinh tế, chị T với anh T đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Hội phụ nữ xã có gặp anh T động viên để hai người đoàn tụ, anh T có gặp chị T để hàn gắn lại nhưng chị T không đồng ý. Về tình cảm giữa chị T với anh T đã mâu thuẫn nghiêm trọng, sống không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị T với anh T có một đứa con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014 đang sống với anh T. Tòa án cho hai người ly hôn là hợp lý.

Theo khoản 2 Điều 17, Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp,… và lý do chính đáng khác”;

“Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”.

Chị T với anh T có thời gian dài không sống chung, hai người không tự hàn gắn lại được, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Giữa chị T với anh T đã sống xa cách nhau từ năm 2017 đến nay.

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét, chấp nhận yêu cầu của chị T ly hôn đối với anh T.

[3] Về con chung: Chị T với anh T, trong thời kỳ hôn nhân hai người có 01 con chung tên Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014, hiện con đang sống với anh T, khi ly hôn tôi đồng ý giao con cho anh T nuôi dưỡng và tôi không cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng của cháu L muốn được sống với anh T.

Xét, giao cháu Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014, cho anh T nuôi dưỡng cho đến khi cháu thành niên và có khả năng lao động. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở chị T trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T khai giữa chị với anh T không có tài sản và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, không đặt ra giải quyết. Nếu sau này anh T cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa anh T với chị T có tài sản, nợ chung thì anh T vẫn có quyền khởi kiện ra tòa yêu cầu giải quyết trong vụ án khác.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Mộng T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị T được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số TU/2019/0005419 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu;

Anh Nguyễn Thanh T không phải chịu tiền án phí hôn nhân.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mộng T.

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mộng T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T;

Giấy chứng nhận kết hôn số 32/2016, ngày 21/6/2016 do UBND xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang cấp cho chị Nguyễn Thị Mộng T với anh Nguyễn Thanh T không còn giá trị pháp luật.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thành L, sinh ngày 23/6/2014 cho anh Nguyễn Thanh T nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Mộng T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Thanh T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở chị Nguyễn Thị Mộng T trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết. Nếu sau này anh Nguyễn Thanh T cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa anh T với chị T có tài sản, nợ chung thì anh T vẫn có quyền khởi kiện chị T ra tòa yêu cầu giải quyết trong vụ án khác Về án phí: Chị Nguyễn Thị Mộng T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị T được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số TU/2019/0005419 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu;

Anh Nguyễn Thanh T không phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Nguyễn Thị Mộng T có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Thời hạn kháng cáo của anh Nguyễn Thanh T là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 09/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về