Bản án 28/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2020 đối với:

- Bị cáo:

Lê Tuấn A, sinh năm 1994 tại tỉnh Tiền Giang.

Địa chỉ: ấp B, xã B1, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 06/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn E, sinh năm 1967; và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1965; Vợ: Trần Thị Thanh Q, sinh năm 1997; Con có 02 người (lớn sinh năm 2019 và nhỏ sinh năm 2020).

Nhân thân:

+ Bản án số 90/2012/HSST ngày 21/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang xử phạt Lê Tuấn A 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng.

+ Bản án số 36/2013/HSST ngày 21/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang xử phạt Lê Tuấn A 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của bản án số 90/2012/HSST buộc Lê Tuấn A phải chấp hành chung là 01 năm 09 tháng tù; chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/7/2014. Năm 2013 thi hành xong phần án phí hình sự của bản án số 90/2012/HSST 21/9/2012, chưa thi hành nghĩa vụ án phí hình sự của bản án 36/2013/HSST ngày 21/5/2013.

+ Tiền sự: Không.

+ Tiền án: 01 lần Bản án số 36/2013/HSST ngày 21/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang xử phạt Lê Tuấn A 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của bản án số 90/2012/HSST buộc Lê Tuấn A phải chấp hành chung là 01 năm 09 tháng tù (Chưa thi hành nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm của bản án số 36/2013/HSST).

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại tòa.

+ Bị hại: Công ty TNHH SỢI THÉP TINH PHẨM T1VIỆT NAM Địa chỉ: Lô 131 B2 KCN L, xã T2 1, huyện T3, tỉnh Tiền Giang. Đại diện theo pháp luật: Yang J – Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo uỷ quyền: Trần Văn N – chức vụ: Trợ lý khoa trưởng. (theo văn bản uỷ quyền ngày 07/9/2020). (Có mặt).

Địa chỉ: ấp 3, xã T2 1, huyện T3, tỉnh Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Thị Thanh Q, sinh năm 1997. (Có mặt).

Địa chỉ: ấp T4, xã T5, thị xã C1, tỉnh Tiền Giang.

* Người làm chứng:

1. Huỳnh Thái P1, sinh năm 1999. (Có mặt).

Địa chỉ: ấp P2, xã P3, huyện C1, tỉnh Tiền Giang.

2. Nguyễn Phước D1, sinh năm 1993. (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp 3, xã T2 1, huyện T3, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 3 năm 2019, Lê Tuấn A bắt đầu vào Công ty Trách nhiệm hữu hạn sợi thép tinh phẩm T1Việt Nam – khu công nghiệp L, có trụ sở tại Ấp 4, xã T31, huyện T4, tỉnh Tiền Giang, có 100% vốn nước ngoài do ông YANG J làm tổng giám đốc, với nhiệm vụ là công nhân khâu kéo thô tại Xưởng sản xuất của Công ty. Trong quá trình làm việc tại Công ty, Tuấn A biết tại Xưởng sản xuất vào ca đêm không có nhân viên kỹ thuật quản lý, mà Công ty quản lý công nhân bằng Camera quan sát. Vào lúc 21 giờ ngày 07/5/2020, lợi dụng lúc công nhân làm tăng ca, không có nhân viên quản lý làm việc nên Tuấn A dùng xe nâng đẩy tay trộm 16 cuộn cáp Inox màu trắng loại 304B phi 3.0 nguyên liệu, có trọng lượng 340,9 kg, đến tường rào của Công ty và ném từng cuộn ra bên ngoài Công ty. Đến 23 giờ cùng ngày, khi tan ca, Tuấn A dùng xe mô tô 63B2 – 69789 chở 16 cuộn cáp đã trộm được về nhà trọ tại Ấp 5, xã T31, huyện T4, tỉnh Tiền Giang cất giữ. Ngày 08/5/2020, Tuấn A bán số tài sản trộm được cho một người thanh niên thu mua phế liệu không biết tên và địa chỉ được số tiền 5.100.000 đồng. Ngày 13/5/2020, Tuấn A gặp lại người thanh niên đã mua các cuộn cáp mà Tuấn A đã trộm của Công ty để hỏi mua lại thì người thanh niên trên trả lời “Hàng đã giao cho vựa phế liệu ở TP Hồ Chí Minh rồi, để hỏi xem nếu còn sẽ mang về bán lại cho”. Đến ngày 14/5/2020, người thanh niên mang tài sản trên bán lại cho Tuấn A với giá 5.460.000 đồng. Sau đó, Tuấn A thuê xe chở 340,9 kg Inox loại 304B phi 3.0 nguyên liệu giao trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn sợi thép tinh phẩm T1Việt Nam – khu công nghiệp L. Đến ngày 15/5/2020, Lê Tuấn A đến Công an huyện T4 đầu thú.

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 08/5/2020, ông He Tian P3, sinh năm 1953, Quốc tịch Trung Quốc là Phó Tổng giám đốc Công ty, quan sát camera tại nhà xưởng sản xuất của Công ty phát hiện Lê Tuấn A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nên tiến hành kiểm tra xác định Công ty bị mất 340,9 kg Inox loại 304B phi 3.0 nguyên liệu.

Ngày 13/5/2020, Trần Văn Nhựt, sinh năm 1993, cư trú Ấp 3, xã T31, huyện T4, tỉnh Tiền Giang là nhân viên kỹ thuật của Công ty đã trích xuất camera đoạn ghi lại hình ảnh Lê Tuấn A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của Công ty và giao nộp cho Công an huyện T4.

Theo Kết luận định giá tài sản số 220/KL-HĐĐGTS ngày 07/7/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện T4, tỉnh Tiền Giang xác định: 340,9 kg Inox loại 304B phi 3.0 nguyên liệu, trị giá 21.476.700 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 15/5/2020, Lê Tuấn A đã tự nguyện giao nộp số tài sản đã chiếm đoạt của Công ty Trách nhiệm hữu hạn sợi thép tinh phẩm T1Việt Nam – khu công nghiệp L gồm 340,9 kg Inox loại 304B phi 3.0 nguyên liệu. Đồng thời, ngày 30/5/2020, bị can Tuấn A đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về vật chất (do chậm giao hàng cho đối tác) cho Công ty số tiền 75.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 21/CT-VKSTG-P2 ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang truy tố bị cáo Lê Tuấn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Bị cáo Lê Tuấn A khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang truy tố đối với bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa có ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Tuấn A. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Tuấn A từ 12 đến 18 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trao trả tài sản cho bị hại và bị cáo đã bồi thường thiệt hại xong nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, truy tố và hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật tố Tụng hình sự. Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Lê Tuấn A tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết quả khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ và tài liệu khác do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 gờ ngày 07/5/2020, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt 340,9 kg Inox loại 304B phi 3.0, trị giá 21.476.700 đồng của Công ty TNHH sợi thép tinh phẩm T1Việt Nam – Khu công nghiệp L thuộc ấp 4, xã T2 1, huyện T3, tỉnh Tiền Giang. Do đó, có đủ căn cứ kết luận, hành vi của bị cáo Lê Tuấn A đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Nhận thấy, về ý thức chủ quan bị cáo nhận thức được rằng, tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức luôn được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh. Thế nhưng, chỉ vì tham lam mà bị cáo đã lợi dụng vào sự thiếu cảnh giác của bị hại trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi phạm tội. Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của bị hại, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bị hại; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, xét sau khi phạm tội, bị cáo đã chủ động thu hồi tài sản để trả lại cho bị hại và bồi thường thiệt hại đã gây ra; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có ý kiến xin bãi nại, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì nên không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Tuấn A 01(một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

* Về án phí: Bị cáo Lê Tuấn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về