Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 33/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 521/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thanh V; nơi cư trú: Số 121 V, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt

- Bị đơn: Anh Đặng Văn T; đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Thôn N, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú cuối cùng: Số 121 V, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Q (địa chỉ: Xóm 4, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đề ngày 31 tháng 12 năm 2019 cùng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh V trình bày: Chị kết hôn với anh Đặng Văn T từ năm 2012 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào ngày 04/12/2012. Quá trình vợ chồng chung sống thời gian đầu hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2014 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách và quan điểm sống không còn phù hợp, vợ chồng không tin tưởng nhau về mặt tình cảm nên thường xuyên xảy ra cãi vã nhau, không khí gia đình luôn căng thẳng, bất hòa, cuộc sống ngày càng đi vào bế tắc. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình, bạn bè khuyên giải nhiều song không có kết quả và ngày càng trầm trọng hơn. Mặt khác do thời gian đầu (năm 2014) khi anh T mới đi làm ăn xa nhà thỉnh thoảng anh T còn về thăm mẹ con chị, sau khi chị sinh cháu thứ hai vào năm 2015 anh T gần như không về nhà, một năm chỉ về nhà khoảng một đến hai lần dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần và đến tháng 12 năm 2017 anh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” bị Tòa án quân sự Trung ương xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hiện anh T đang bị giam tại Trại tạm giam Q. Hai bên sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai về tình cảm cũng như về kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ nên chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đặng Văn T.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đặng Như T, sinh ngày 06/4/2014 và Đặng Vĩnh Y, sinh ngày 27/8/2015. Ly hôn chị V có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung cho đến khi con trưởng thành và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, chị V không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa anh Đặng Văn T vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam để tiến hành lấy lời khai của anh Đặng Văn T tại Trại tạm giam Q, anh T trình bày: Quá trình chung sống giữa anh và chị V không có mâu thuẫn gì cho đến tháng 12 năm 2017 anh T bị bắt và bị tạm giam về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian đầu thỉnh thoảng chị V có vào thăm nom anh, nhưng khoảng 02 năm trở lại đây vợ chồng không gặp nhau nữa, không còn quan tâm gì đến cuộc sống, tình cảm của nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách là do hoàn cảnh. Nay chị V có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Lê Chân giải quyết ly hôn đối với anh, anh T không muốn ly hôn và mong muốn chị V suy nghĩ lại để vơ chồng đoàn tụ.

Về con chung: Anh T trình bày vợ chồng có 02 con chung là Đặng Như T, sinh ngày 06/4/2014 và Đặng Vĩnh Y, sinh ngày 27/8/2015. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn anh T đề nghị giao cả 02 con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành và đề nghị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con vì anh đang phải chấp hành án nên không có điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng con chung.

Về chia tài sản: Anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị V giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Đặng Văn T cũng như những quan điểm về con chung và tài sản chung đã trình bày ở trên.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn; bị đơn chấp hành đúng các quy định về tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Vũ Thị Thanh V được ly hôn anh Đặng Văn T; về con chung: Giao 02 con chung là Đặng Như T, sinh ngày 06/4/2014 và Đặng Vĩnh Y, sinh ngày 27/8/2015 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Đối với tiền cấp dưỡng nuôi con chung và chia tài sản chị V không yêu cầu tòa án giải quyết, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Chị V phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Về tố tụng: Theo Đơn khởi kiện xin ly hôn và Đơn xin xác nhận tạm trú thể hiện anh Đặng Văn T có nơi tạm trú cuối cùng: Số 121 V phường N, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Q. Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa chị Vũ Thị Thanh V và anh Đặng Văn T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, bị đơn là anh Đặng Văn T vắng mặt, song anh T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Đặng Văn T .

[3] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Thanh V, sinh năm 1991 và anh Đặng Văn T, sinh năm 1983 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 04 tháng 12 năm 2012. Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh T là hợp pháp.

[4] Quá trình vợ chồng chung sống, theo chị V trình bày: Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng từ năm 2015 và không còn khả năng đoàn tụ, chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Anh T không muốn ly hôn và mong muốn chị V suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên anh T xác nhận tình cảm vợ chồng bị xa cách dần và không còn quan tâm đến cuộc sống cũng như tình cảm của nhau khoảng 02 năm nay. Qua điều tra xác minh cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V và anh T đã trầm trọng, hiện anh T đang phải chấp hành án (07 năm 06 tháng tù) tại Trại tạm giam Q. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh T trên thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được, bởi vậy yêu cầu của chị V xin được ly hôn với anh T là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với thực tế, phù hợp với qui định tại các Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về nuôi con chung: Chị V và anh T cùng xác nhận vợ chồng có 02 con chung là Đặng Như T, sinh ngày 06/4/2014 và Đặng Vĩnh Y, sinh ngày 27/8/2015. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn, hai bên cùng thống nhất giao 02 con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Việc thỏa thuận giữa hai bên về việc nuôi con chung và tiền cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về chia tài sản: Chị V và anh T cùng xác nhận vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét việc phân chia tài sản chung giữa hai bên.

[7] Về án phí: Chị V phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Thanh V và anh Đặng Văn T.

- Về nuôi con chung: Giao 02 con chung là Đặng Như T, sinh ngày 06/4/2014 và Đặng Vĩnh Y, sinh ngày 27/8/2015 cho chị Vũ Thị Thanh V trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con tạm thời không đặt ra.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Vũ Thị Thanh V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được tình trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo Biên lai thu tiền số 0013780 ngày 11 tháng 02 năm 2020. Chị V đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Chị V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:28/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về