Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2020/TLST - HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995 (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1991 (có mặt). Cùng địa chỉ: Thôn K, xã A, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 07 tháng 01 năm 2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn - chị Nguyễn Thị T trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Ngày 14/12/2012, chị và anh T đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở hoàn toàn tư nguyện, không bị ai ép buộc. Cưới xong chị về làm dâu và vợ chồng ở riêng. Tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm sống khác nhau, anh T hay tụ tập bạn bè uống rượu nhiều nên vợ chồng thường xuyên sinh ra va chạm. Tháng 01/2020, mâu thuẫn căng thẳng, chị bỏ về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị xin được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Lê Mai A sinh ngày 16/02/2014, Lê Quỳnh A sinh ngày 16/02/2014 và Lê Anh T sinh ngày 09/10/2017. Thời gian trước các con vẫn đi đi về về, lúc ở với chị lúc ở cùng anh T, nhưng đến nay, cả ba cháu đang ở cùng anh T. Ly hôn, chị xin nuôi cháu Anh T, để anh T nuôi cháu Mai A và Quỳnh A. Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay, chị đang làm tại Công ty điện tử Saiyida có trụ sở tại xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, thu nhập 7 triệu đồng/ 1 tháng. Chị có đủ điều kiện để nuôi cháu Anh T và bố mẹ đẻ của chị còn trẻ khỏe có thể giúp chị chăm lo cho cháu Anh T.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Lê Văn T trình bày: Chị T trình bày về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống là đúng. Còn nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không bảo ban, thống nhất được về làm ăn kinh tế, chị T đòi đi làm ca đêm nhưng anh không đồng ý nên vợ chồng sinh ra va chạm nhau. Ngày 07/01/2020, chị T bỏ đi khỏi nhà, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nhiều lần anh đến nhà chị T dàn xếp gọi về chung sống đoàn tụ nhưng chị T không về. Nay anh xác định vì các con nên không muốn ly hôn, nhưng nếu chị T vẫn kiên quyết xin ly hôn thì anh phải chịu.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Lê Mai A sinh ngày 16/02/2014, Lê Quỳnh A sinh ngày 16/02/2014 và Lê Anh T sinh ngày 09/10/2017. Hiện nay các con đang ở cùng anh. Ly hôn, anh xin nuôi cả ba con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Anh tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc được biết: Ngày 14 tháng 12 năm 2012, UBND xã A làm thủ tục đăng ký kết hôn cho anh Lê Văn T và chị Nguyễn Thị T. Cưới xong, chị T về làm dâu và ở chung cùng gia đình anh T. Tình cảm vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn được biết là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được về việc làm ăn nên anh chị va chạm nhau. Đến tháng 01/2020, anh chị mâu thuẫn căng thẳng, chị T bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị T xin ly hôn anh T, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Chị T và anh T có 03 con chung là Lê Mai A sinh ngày 16/02/2014, Lê Quỳnh A sinh ngày 16/02/2014 và Lê Anh T sinh ngày 09/10/2017. Hiện nay các cháu đang ở cùng anh T. Chị T và anh T đều có đủ khả năng để nuôi con chung, có thời gian để chăm lo cho các con, gia đình hai bên cũng có điều kiện để giúp đỡ anh chị chăm nuôi các con nên địa phương đề nghị Tòa án xem xét giao con theo quy định của pháp luật. Về tài sản, công nợ: Chị T và anh T có tài sản gì, nợ nần ai hay cho ai vay mượn tài sản gì địa phương không biết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi xét xử thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, quá trình điều tra, thu thập chứng cứ tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Việc chấp hành thời hạn xét xử đúng quy định. Tại phiên tòa, việc khai mạc phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng quy định. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh T của chị T.

Về con chung: Giao con cho chị T nuôi Anh T còn anh T nuôi cháu Mai A và Quỳnh A là phù hợp. Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức các bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát n hân dân huyện Vĩnh Tường. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ Hôn nhân và gia đình giữa chị Nguyễn Thị T và anh Lê Văn T thấy rằng:

Cuộc hôn nhân giữa chị T và anh T là cuộc hôn nhân tiến bộ và hợp pháp, xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của các bên nên cũng có một thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, quan điểm sống khác nhau, không bảo ban, thống nhất được về làm ăn kinh tế nên vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm và đã sống ly thân từ tháng 01/2020 cho đến nay.

Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T đã đến mức căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Việc chị T xin ly hôn anh T là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận. Về phía anh T không nhất trí ly hôn nhưng lại không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng do đó nguyện xọng xin đoàn tụ của anh T là không thực tâm nên không được chấp nhận.

[2] Về con chung: Xét thấy, chị T và anh T đều có đủ điều kiện về vật chất, tinh thần và thời gian để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Tuy nhiên, để giảm bớt gánh nặng cho anh chị và hiện nay cháu Anh T dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cháu Anh T cho chị T nuôi dưỡng còn giao hai cháu Mai A và Quỳnh A cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp. Chị T và anh T không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị T và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Lê Văn T.

Về con chung: Giao cháu Lê Anh T sinh ngày 09/10/2017 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và giao hai cháu Lê Mai A sinh ngày 16/02/2014, Lê Quỳnh A sinh ngày 16/02/2014 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng (Hiện nay cả ba con chung đang ở cùng anh T). Chị T và anh T không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T và anh T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0004926 ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường. Chị T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:28/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về