Bản án 28/2020/DS-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 28/2020/DS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Vào ngày 06 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm C khai vụ án dân sự thụ lý số: 33/2020/TLST-DS ngày 26 tháng 02 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sảntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2020/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn : Ông Phạm Khải H, sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ: Số 08, đường số 1, khu dân cư THĐ, Khóm H, phường K, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

2/. Bị đơn : Ông Trần Phạm C, sinh năm 1951 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 437/20 đường Quốc lộ 1A, khóm M, phường J, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17 tháng 02 năm 2020, các chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn là ông Phạm Khải H trình bày:

Do có quen biết, nên vào ngày 10/12/2019 ông Phạm Khải H có cho ông Trần Phạm C mượn số tiền 30.000.000 đồng, để ông C trang trải chi phí sinh hoạt gia đình. Đến ngày 14/12/2019 ông H cho ông C mượn thêm số tiền 300.000.000 đồng, để ông C trả tiền thiết bị trại gà, thiết bị nuôi yến và thiết bị nuôi tôm. Tổng cộng hai lần mượn là 330.000.000 đồng và ông C hứa đến ngày 24/12/2019 sẽ trả lại số tiền đã mượn. Tuy nhiên đến nay đã quá hạn hoàn trả nhưng ông C chưa trả, ông H có liên lạc và nhắc nhở nhiều lần nhưng ông C cố tình tránh mặt và không có thiện chí trả nợ.

Tại phiên Tòa ông Phạm Khải H yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc ông Trần Phạm C trả cho ông Phạm Khải H số tiền vốn vay là 330.000.000 đồng.

Buộc ông Trần Phạm C trả tiền lãi suất từ ngày 25/12/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 10%/năm với số tiền là 20.625.000 đồng và trả lãi cho đến khi giải quyết xong vụ án.

- Đối với bị đơn ông Trần Phạm C: Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay đều vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến gì. Toà án đã cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng ông Trần Phạm C không gửi văn bản cho Toà án biết về ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông C cũng không đến Toà án để tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, C khai chứng cứ và hoà giải, không đến tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng trình bày ý kiến:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân C giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 68, 70, 71, 72, 86 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua kết quả thẩm tra các chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ông Phạm Khải H đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản đối chiếu bản chính Giấy chứng minh nhân dân tên Phạm Khải H; Bản đối chiếu bản chính Sổ hộ khẩu, tên chủ hộ Lê H Xuân Nghiêm; Tờ “giấy mượn tiền” (bản chính viết tay trên hai mặt giấy kẻ ngang).

Những tình tiết sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông Trần Phạm C không phản đối những tình tiết, sự kiện tài liệu mà ông Phạm Khải H đã trình bày và giao nộp cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Theo đơn khởi kiện ngày 17/02/2020 ông Phạm Khải H ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của ông Trần Phạm C là Số 437/20 đường Quốc lộ 1A, khóm 5, phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án không tống đạt được thông báo thu lý vụ án cho ông C do ông C không thường xuyên cư trú tại địa chỉ này nhưng ông C không thông báo cho ông H biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên được coi là cố tình giấu địa chỉ. Vì vậy, Tòa án căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.

[1.2] Ông Trần Phạm C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt ông C.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Khải H: Xét thấy vào ngày 10/12/2019 ông Phạm Khải H có cho ông Trần Phạm C mượn số tiền 30.000.000 đồng, để trang trải chi phí sinh hoạt gia đình. Đến ngày 14/12/2019 ông H cho ông C mượn thêm số tiền 300.000.000 đồng, để trả tiền thiết bị trại gà, thiết bị nuôi yến và thiết bị nuôi tôm. Tổng cộng hai lần mượn là 330.000.000 đồng và ông C hứa đến ngày 24/12/2019 sẽ trả lại số tiền đã mượn là 330.000.000 đồng.

[2.2] Do ông C vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên ông H khởi kiện. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, ông H đã cung cấp Tờ “giấy mượn tiền” (bản chính viết tay trên hai mặt giấy kẻ ngang). Sau khi thụ lý, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, C khai chứng cứ và hòa giải cùng với chứng cứ do nguyên đơn cung cấp được con dâu ông C là bà Võ Kiều O cùng nơi cư trú với ông C nhận thay cho ông và có thông báo cho ông C biết nhưng ông C không có ý kiến liên quan đến yêu cầu khởi kiện, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và cũng không có yêu cầu phản tố. Căn cứ vào Khoản 1 Khoản 2 Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp là hợp lệ. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm Khải H là có căn cứ nên chấp nhận. Buộc ông Trần Phạm C có nghĩa vụ trả cho ông Phạm Khải H số tiền vốn 330.000.000 đồng (Ba trăm ba mươi triệu đồng) [2.3] Xét yêu cầu của nguyên đơn về tính lãi suất là 10%/năm trên số tiền vốn 330.000.000 đồng, tạm tính từ ngày 25/12/2019 đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm (330.000.000 đồng x 10%/năm x 225 ngày/360 ngày) = 20.625.000 đồng. Do nguyên đơn ông Phạm Khải H cho ông Trần Phạm C mượn tiền không thỏa thuận lãi suất nhưng khi đến hạn trả nợ ông C không thực hiện việc trả nợ. Theo quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 thì bên cho vay là nguyên đơn có quyền yêu cầu trả lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 là có căn cứ nên chấp nhận.

[3] Từ những phân tích trên, đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Khải H và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Phạm Khải H không phải chịu; ông Trần Phạm C phải chịu 17.531.250 đồng theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 244, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277, khoản 4 Điều 466, khoản 2 Điều 468, khoản 1 Điều 469 Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Khải H 1/. Buộc ông Trần Phạm C trả cho ông Phạm Khải H số tiền vốn là 330.000.000 đồng và tiền lãi 20.625.000 đồng. Tổng vốn và lãi 350.625.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2/. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trần Phạm C phải chịu là 17.531.250 đồng.

Ông Phạm Khải H không phải chịu, trả lại cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.376.000 đồng theo biên lai số 0001716 ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

3/. Ông Phạm Khải H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Ông Trần Phạm C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung), thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/DS-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:28/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về