Bản án 28/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NT, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 409/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 365/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Minh C sinh ngày 02 tháng 10 năm 1983 tại thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ 10, thôn V, xã V, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê C (sinh năm 1948) và bà Lữ Thị P (sinh năm 1951); có vợ là Lương Thị Thanh H (sinh năm 1989) và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Bị hại: Ông Phan Tiến D sinh năm 1954 (đã chết) và bà Huỳnh Thị N sinh năm 1956 (đã chết); nơi cư trú: Ô 23, Lô 1166, H, xã P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Phan Thị Thu N sinh năm 1976.

2. Bà Phan Thị Thu H sinh năm 1979.

3. Ông Phan Tiến Q sinh năm 1981.

4. Ông Phan Thanh H sinh năm 1984.

5. Bà Phan Thị Út T sinh năm 1988.

Cùng nơi cư trú: Ô 23, Lô B, H, xã P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa.

Bà Phan Thị Thu H, ông Phan Tiến Q, ông Phan Thanh H và bà Phan Thị Út T đều ủy quyền cho bà Phan Thị Thu N (theo giấy ủy quyền ngày 06/01/2016); Bà Phan Thị Thu N vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn L sinh năm 1962; nơi cư trú: Thôn P, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

- Bị đơn dân sự: Công ty K.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự: Ông Huỳnh Công T sinh năm 1978; nơi cư trú: Tổ 14, thôn T, xã V, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa (theo giấy ủy quyền ngày 30/12/2015); vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Ánh H sinh năm 1965; nơi cư trú: Số 146/22 P, phường P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Minh P sinh năm 1972; nơi cư trú: Số 11/5 P, phường P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 50 phút ngày 25/10/2015, Lê Minh C điều khiển xe ô tô tải mang biển kiểm soát 79C-073.85 chạy lưu thông trên đường 23/10 hướng từ Mã Vòng - huyện D. Khi đến ngã ba đường 23/10 - T, phường P, thành phố NT, Lê Minh C điều khiển xe ô tô chuyển hướng rẽ phải vào đường T. Do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn đã tông vào xe mô tô mang biển kiểm soát 79L7-7351 do ông Phan Tiến D điều khiển chở vợ là bà Huỳnh Thị N ngồi sau lưu thông cùng chiều bên phải; hậu quả ông Phan Tiến D và bà Huỳnh Thị N chết tại chỗ.

Hành vi của Lê Minh C điều khiển xe ô tô tải mang biển kiểm soát 79C- 073.85 không chú ý quan sát, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn giao thông khi lưu thông chuyển hướng xe rẽ phải vào đường Thủy X đã vi phạm quy định tại khoản 23 Điều 8, khoản 1 Điều 9 và Điều 15 Luật Giao thông đường bộ quy định về chuyển hướng xe; vi phạm khoản 2 Điều 5 Thông tư 13/2009/TT-BGTVT ngày 17/7/2009 của Bộ giao thông vận tải đã quy định “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép đến mức không nguy hiểm (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp sau: 2. Chuyển hướng xe chạy hoặc tầm nhìn hạn chế”.

Tại các Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 397/GĐTP/2015 và số 398/GĐTP/2015 ngày 28/10/2015 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận nguyên nhân chết của ông Phan Tiến D và bà Huỳnh Thị N là đa chấn thương do tai nạn giao thông.

Sau tai nạn, Lê Minh C và chủ phương tiện đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và được người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phan Thị Thu N làm đơn bãi nại.

Ti bản cáo trạng số 20/KSĐT-XXSTHS ngày 09/01/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Lê Minh C về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Ti phiên tòa sơ thẩm, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo Lê Minh C; đề nghị xử phạt bị cáo Lê Minh C từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phan Thị Thu N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn L; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự là ông Huỳnh Công T vắng mặt, nên đề nghị Hội đồng xét xử tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

Về vật chứng vụ án: Đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phan Thị Thu N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn L; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự là ông Huỳnh Công T; những những người làm chứng là bà Nguyễn Thị Ánh H và ông Nguyễn Minh P được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; xét thấy sự vắng mặt của người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự và những người làm chứng trên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Ti phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Minh C khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi mà bị cáo đã thực hiện như nội dung cáo trạng nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông; biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông; biên bản khám nghiệm tử thi; bản kết luận giám định pháp y tử thi; vật chứng vụ án đã thu giữ; phù hợp với lời khai của người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự và những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án, cũng như phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; đã thể hiện: Khoảng 08 giờ 50 phút ngày 25/10/2015, Lê Minh C điều khiển xe ô tô tải mang biển kiểm soát 79C-073.85 chạy lưu thông trên đường 23/10 hướng từ Mã Vòng - huyện D. Khi đến ngã ba đường 23/10 - T, phường P, thành phố NT, Lê Minh C điều khiển xe ô tô chuyển hướng rẽ phải vào đường T. Do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn đã tông vào xe mô tô mang biển kiểm soát 79L7-7351 do ông Phan Tiến D điều khiển chở vợ là bà Huỳnh Thị N ngồi sau lưu thông cùng chiều bên phải; hậu quả ông Phan Tiến D và bà Huỳnh Thị N chết tại chỗ; do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Lê Minh C về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

So sánh khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt ngang bằng nhau; do đó, căn cứ khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử xét xử bị cáo Lê Minh C theo điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Minh C là rất nghiêm trọng; bị cáo điều khiển xe ô tô không chú ý quan sát, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn khi chuyển hướng, nên đã gây ra tai nạn giao thông với hậu quả rất nghiêm trọng, làm chết 02 người; lỗi trong vụ án này hoàn toàn thuộc về bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng của công dân, xâm phạm các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ; do đó, cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo; sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo đã cùng với chủ phương tiện tự nguyện bồi thường thiệt hại và được người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phan Thị Thu N làm đơn bãi nại; bản thân bị cáo có nhân thân tốt, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và có cậu ruột là liệt sĩ; do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự nhân đạo, khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phan Thị Thu N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn L; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự là ông Huỳnh Công T vắng mặt, không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét, nên tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

[4] Về vật chứng vụ án: Đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Minh C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Minh C,

Xử phạt Lê Minh C 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác khi người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phan Thị Thu N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn L; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự là ông Huỳnh Công T có đơn yêu cầu.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về